TỔ QUỐC ĂN NĂN: MỘT LỪA ĐẢO THẾ KỶ

Tiêu chuẩn

Nguồn: http://ethongluan.org

Tác giả: Nguyễn Gia Thưởng
Được đăng ngày Thứ bảy, 04 Tháng 2 2017 17:28

“…Để lật sang một trang sử mới trong việc xây dựng tổ chức, tạo nấc thang cho tiến trình dân chủ hóa đất nước, chúng tôi mời tác giả Tổ Quốc Ăn Năn hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Alain Peyrefitte…”

lemalfrancais_toquocannan

LTS: Những ai đã một lần đọc Tổ Quốc Ăn Năn, chắc hẳn phải tấm tắc khen tác giả là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận, một kho tàng trí tuệ của Việt Nam.

Lòng ngưỡng mộ độc giả dành cho tác giả Tổ Quốc Ăn Năn đạt một đỉnh điểm cao khi tác giả tự hóa thân mình là người hiền hòa, lương thiện, là người có đạo đức và tự cho mình quyền báng bổ, chê bai người Việt là hung ác, sai trái, xảo trá, gian ngoa.

Đọc xong Le Mal Français của Alain Peyrefitte, độc giả sẽ thấy Tổ Quốc Ăn Năn chính là bản sao của quyển Le Mal Français. Một bản sao như một cặp song sinh: anh là người Pháp, em là người Việt!

Đây là một bằng chứng tố cáo một vi phạm đạo đức, vi phạm luân lý và lương tâm của người cầm bút. Tác giả Tổ Quốc ăn Năn đã mượn toàn bộ ý tưởng của quyển Le Mal Français của Alain Peyrefitte và đem xào nấu vào trong tiếng Việt. Ông đã đánh cắp hầu hết ý tưởng và câu văn trong cuốn sách này. Và ngay cả cách bố cục và lối hành văn cũng được tác giả nhập tâm một cách kỹ lưỡng và sao chép không hề ngần ngại, không hề ngượng ngùng. Nói tóm lại, ông đã phạm tội đạo văn!

Chúng tôi xin mời quý độc giả đọc bài viết dưới đây để tìm hiểu xem tác giả Tổ Quốc Ăn Năn đã đạo văn như thế nào!

*****

Hiện tượng cầm nhầm trên thế giới

– Vào tháng 2 năm 2011, người ta khám phá trong luận án của ông Karl-Theodor zu Guttenberg, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Đức, có những đoạn văn của những tác giả khác mà không công bố xuất xứ. Ông đã phải từ chức vào ngày 1 tháng 3 năm 2011 vì mắc tội đạo văn.

– Ngày 10 tháng 8 năm 2012, ký giả Fareed Zakaria của tờ TimeCNN đã bị treo giò một tuần lễ vì đã vi phạm tội đạo văn, cầm nhầm một bài của ký giả Jill Lepore của tờ New Yorker.

– Vào ngày 14 tháng 2 năm 2013, bà Annette Schavan đã phải từ chức Bộ Trưởng Giáo Dục của Đức, sau khi Viện Đại Học Dusseldorf tuyên bố thu hồi bằng tiến sĩ đã trao cho bà cách đó 33 năm. Viện tuyên bố rằng bà đã gian lận “có hệ thống và cố tình” khi viết luận án của mình. Học vị “tiến sĩ” rất được kính nể tại Đức. Danh vị này đi cùng với tên tuổi mỗi khi nêu tên của họ.

– Ngày 6 tháng 10 năm 2014, ông Alain Delchambre, chủ tịch Hội Đồng Quản trị Đại Học ULB của Bỉ đã phải từ chức vì diễn văn khai mạc của ông là một bài sao chép diễn văn của tổng thống Jacques Chirac năm 2003. Mặc dù ông không phải là người chấp bút, nhưng ông đã nhận trách nhiệm về vụ này.

Theo định nghĩa của từ điển Merriam Webster, đạo văn (plagiarize) có nghĩa là:

1. ăn cắp và biến những ý kiến hoặc câu chữ của người khác thành của mình;

2. sử dụng sản phẩm của người khác mà không ghi rõ xuất xứ;

3. ăn cắp văn chương, chữ nghĩa;

4. trình bày một ý kiến hoặc sản phẩm phát xuất từ một nguồn đã có sẵn như là một ý kiến hoặc sản phẩm mới và nguyên thủy.

Tổ Quốc Ăn Năn: một lừa đảo thế kỷ

Hiện tượng cầm nhầm chữ nghĩa, qua những thí dụ nêu ở đầu bài viết, xem ra khá phổ biến. Và Việt Nam cũng không là một ngoại lệ mà lại có phần rất thịnh hành. Duy có một hiện tượng đáng chú ý hơn hết là việc cầm nhầm của một người tự xưng là, trí thức có văn phong chính luận xuất sắc. Đó là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn.

Chúng tôi không phủ nhận tài viết, nói rõ hơn là tài hành văn của ông, nhưng chúng tôi không thể im lặng để vô tình trở thành những kẻ đồng lõa trong việc che giấu và bao che cho một việc làm hết sức tồi tệ. Đó là việc đạo văn của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn. Việc đạo văn đã và đang bị cả thế giới lên án, chính vì đây là một hành vi ăn cắp trí tuệ của người khác, chiếm làm sở hữu của mình.

Chúng tôi nhận thấy có bổn phận vạch trần mưu mô đánh cắp của một người mà mọi người vẫn nghĩ là đạo đức, lương thiện và khiêm nhường.

Vì đương sự đã thành công trong việc đánh cắp ý tưởng của ông Alain Peyrefitte nên trong quá trình sinh hoạt trong tổ chức, đương sự luôn dùng thủ thuật này để cướp công của người khác.

Đọc tiểu sử của Alain Peyrefitte, chúng ta thấy không phải là một sự tình cờ mà tác giả Tổ Quốc Ăn Năn chọn quyển Le Mal Français của Alain Peyrefitte để cóp nhặt ý tưởng, vì đây là một kho tàng trí tuệ, được người Pháp mến mộ.

Tưởng cũng nên nhắc lại ông Alain Peyrefitte là một nhà văn uyên bác đã từng xuất bản rất nhiều sách. Ông đã giữ chức Bộ Trưởng Thông Tin, Bộ Trưởng Giáo Dục dưới thời Tổng thống Charles De Gaulle năm 1967; Bộ Trưởng Văn Hóa và Môi trường thời Tổng thống Georges Pompidou năm 1974; Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp thời Tổng thống Valérie Giscard d’Estaing năm 1977. Cũng vào năm 1977, ông được đề cử vào Viện Hàn Lâm Pháp, một thể chế học thuật tối cao bảo vệ ngôn ngữ Pháp.

Trong ấn bản lần thứ hai, in năm 2004, trong phần Lời tựa cho lần in thứ hai, tác giả Tổ Quốc Ăn Năn (trang XVI) đã viết như sau:

“Một số bài viết phiền trách Tổ Quốc Ăn Năn đã thiếu phần thư mục giúp độc giả kiểm chứng những dữ kiện được dùng cho lý luận. Sự phiền trách này chính đáng và tác giả xin ghi nhận dù không thể thỏa mãn. Thực ra thì những tài liệu quan trọng nhất đã được liệt kê ngay trong đoạn mà chúng được đề cập tới. Tổ Quốc Ăn Năn là một quyển sách ý kiến chứ không là một cuốn sách biên khảo, và không ít những cuốn sách ý kiến đã được viết một cách tương tự, kể cả một số tác phẩm lớn. Dĩ nhiên nếu liệt kê được đầy đủ tài liệu thì cũng là điều tốt, nhưng công việc này đòi hỏi một thời gian mà tác giả rất tiếc là không có. Vả lại công việc này cũng sẽ chỉ có một giá trị rất tương đối bởi tác giả chủ yếu viết những gì mà mình biết và nghĩ chứ không viết dựa trên tài liệu tham khảo. Tác giả cũng chỉ sử dụng phần lớn những dữ kiện rất căn bản mà hầu hết mọi người quan tâm đến vấn đề đang được thảo luận đều đã biết” (Hết  trích).

Chúng tôi đi tìm sự thật và kiểm chứng xem có đúng là “tác giả chủ yếu viết những gì mà mình biết và nghĩ chứ không dựa trên tài liệu tham khảo như lời tác giả tuyên bố không.

Và gần đây chúng tôi đã khám phá ra sự thật:

– Tác giả Tổ Quốc Ăn Năn đã mượn toàn bộ ý tưởng của quyển sách “Le Mal Français” của Alain Peyrefitte;

– Tác giả Tổ Quốc Ăn Năn đã đánh cắp hầu hết ý tưởng và câu văn trong cuốn sách này;

– Ngay cả cách bố cục và lối hành văn cũng được tác giả nhập tâm một cách kỹ lưỡng và sao chép không hề ngần ngại, không hề ngượng ngùng;

– Tác giả Tổ Quốc Ăn Năn những tưởng rằng sau nhiều năm không ai tìm ra nguồn gốc những câu chữ ông đánh cắp từ đây để biên soạn sách của ông nên ông dõng dạc tuyên bố rằng ông viết không dựa trên tài liệu tham khảo.

Dưới đây, chúng tôi sẽ chứng minh không những tác giả Tổ Quốc Ăn Năn dựa vào tài liệu mà ông còn nhận vơ ý tưởng và câu văn của ông Peyrefitte một cách sống sượng.

Chúng tôi sẽ lần lượt liệt kê những đoạn văn ông “mượn đỡ” từ quyển Le Mal Français do nhà xuất bản Plon in vào năm 1976 và đem đối chiếu với những đoạn ông viết trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, xuất bản lần thứ hai vào năm 2004.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ ghi lại một số câu tiêu biểu để mọi người có thể thấy mức độ đánh cắp của tác giả trong suốt 525 trang. Quý vị độc giả nào muốn kiểm chứng và tìm hiểu cặn kẽ hơn có thể tìm mua quyển Le Mal Français, ISBN 2-2259-00204-8, bán trên Amazon và Ebay.

Dưới đây là những bằng chứng đạo văn của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn từ quyển sách Le Mal Francais của Alain Peyrefitte:

 

lemalfrancais_page12

1.Le Mal Français: page 12 – Que la France fût continuellement malchanceuse, j’en acquis très tôt la conviction. L’histoire qu’on nous enseignait m’en fournissait les tristes preuves.

Dịch: Tôi đã sớm xác định được rằng nước Pháp thường xuyên gặp sự không may. Môn sử mà chúng ta học đã cho tôi hàng loạt bằng chứng buồn lòng.

Tổ Quốc Ăn Năn:  trang 211 – (Dừng chân nghĩ lại) – Nhân nói về cuộc nam tiến, cũng cần nhận định rằng lịch sử nước ta có cái gì đó thực u uất. Trong suốt quá trình mở nước và dựng nước của ta hình như các biến cố trọng đại lúc nào cũng khởi đầu từ những sự không may.

lemalfrancais_page14

2.  Le Mal Français: page 14 -“la France enjuivée, revenu au temp de Dreyfus”. “Les Français ne s’aiment pas”, me disais-je.

Dịch: Nước Pháp Do Thái hoá, lui về thời Dreyfus. Tôi tự nhủ: «Người Pháp không yêu thương nhau».

Tổ Quốc Ăn Năn:  trang 71 – “Ông kể lại rằng khi ông còn trẻ vừa tới Pháp du học, một giáo sư người Pháp có kinh nghiệm nhiều về Việt Nam đã nói về người Việt Nam rằng: “Ils ne s’aiment pas” (người dịch= n.d: Họ không yêu thương nhau)

 

lemalfrancais_page48

3. Le Mal Français: page 48 – Un peuple dégoûté de l’histoire. “Les Français se considèrent comme un peuple en décadence, sinon comme un peuple fini… Ils sont malades de ce que j’appellerais le dégoût de l’histoire”. Le sursaut pouvait-il venir de ce peuple résigné?

Dịch: Một dân tộc chán ghét lịch sử. «Người Pháp tự coi mình là một dân tộc suy thoái nếu không gọi thẳng ra là một quốc gia đã hết thời… Theo tôi, họ mắc phải căn bệnh ghê tởm lịch sử». Một dân tộc đã buông xuôi như vậy liệu có thể nào bừng tỉnh đượckhông?

Tổ Quốc Ăn Năn:  trang 117 và 118 – Chính vì thế mà chúng ta luôn luôn thụ động để cho thực tế xô đẩy chứ không chủ động việc tổ chức tương lai của mình. Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ… Cuối cùng chúng ta không biết rõ lịch sử của chúng ta, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

lemalfrancais_page104

4.Le Mal Français: page 104 – Louis XIV n’avait d’autre grand dessein que faire ployer le genou aux princes et aux nations:  il dévastait les Flandres, la Hollande, le Palatinat, les pays Rhénans, le val d’Aoste; il bombardait Gênes et Bruxelles; il forçait les autres États à reconnaître le préséance des ambassadeurs de France; il humiliait le pape Alexandre VII; il rompait les traités, il ne donnait sa parole que pour la reprendre.

Dịch: Vua Louis XIV không có tham vọng nào khác hơn là bắt các ông hoàng và các quốc gia quì gối. Ông ta tàn phá xứ Flandres (n.d.: một phần của Hà Lan), Hà Lan, đất vương công Palatinat (n.d.: một phần của Đức), xứ Rhénans (n.d.: một phần của Đức), xứ Val d’Aoste (n.d.: một phần của Ý), dội pháo thành Gênes et Bruxelles, buộc các nước khác phải nhượng bộ Đại sứ Pháp, ông ta hạ nhục Đức Giáo Hoàng Alexandre VII, phá hủy các hiệp ước, hứa hẹn chỉ để rồi nuốt lời (tráo trở, lật lọng).

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 157 và 167 – Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người: đó là một sự thực… Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ… Nguyễn Huệ tiêu biểu cho những giá trị mà chúng ta cần đánh đổ: võ biền, độc đoán, hung bạo, lật lọng trái ngược với những giá trị ta cần phát huy. (Chú thích: Tác giả đã hoán chuyển nhân vật Louis XIV thành vua Quang Trung).

lemalfrancais_page136

5. Le Mal Français:  page 136 – “Dieu a créé la terre mais les Hollandais ont créé les Pays Bas”. Vieux dicton hollandais

Dịch:Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính người Hòa Lan đã làm ra đất nước Hòa Lan” – tục ngữ cổ Hòa Lan.

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 31 – Người Hòa Lan thường tự hào: “Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng chính chúng tôi đã làm ra đất nước này”.

lemalfrancais_page138

6.Le Mal Français:  page 138 – Elle possède certaines des plus puissantes sociétés mondiales: la Royal Dutch Shell, Unilever. L’empire industriel et commercial de Philips qui donne du travail à plus de 250.000 personnes en divers pays.

Dịch: Nước này (n.d: Hòa Lan) sở hữu nhiều công ty hùng mạnh trên trường quốc tế như Royal Dutch Shell, Unilever. Đế chế công nghiệp và thương mại Philips tạo công ăn việc làm cho 250.000 người tại nhiều quốc gia.

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 31 – Các công ty lớn của Hòa Lan như Philips, Royal Dutch, Unilever có chi nhánh trên khắp các lục địa và tại tất cả các quốc gia phát triển.

—–

7. Le Mal Français:  page 138 – Une nation de boutiquiers – “C’est une nation de boutiquiers” disait avec dédain Napoléon.

Dịch: Một quốc gia chủ tiệmNapoléon đã từng nhận xét với thái độ miệt thị (n.d: về nước Anh): «Đó là một quốc gia của mấy người chủ tiệm».

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 398 và 399 – Anh: một dân tộc bán tiệm. Napoléon I có lần nhận định một cách không mấy nể nang người Anh là một “dân tộc bán tiệm” (un peuple de boutiquiers).

lemalfrancais_page139

8.Le Mal Français: page 139 – Le miracle suisse – La Suisse n’est pas mieux dotée par la nature que les Pays-Bas. Elle est un peu plus grande, mais si montagneuse que la moitié de son territoire ne permet ni culture ni même élevage. Pas de sources d’énergie, si ce n’est hydraulique. Pas, ou presque, de minerais.

Dịch: Phép màu Thụy Sĩ – Thiên nhiên không ưu đãi Thụy Sĩ hơn so với Hoà Lan. Rộng lớn hơn một chút, nhưng nhiều núi non mà quá nửa diện tích không thể trồng trọt hay thậm chí chăn nuôi. Không có nguồn năng lượng nào, ngoại trừ thủy điện. Hầu như không có khoáng sản.

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 405 – Như Thụy Sỹ, quốc gia nhỏ bé và bị quên lãng trong nhiều thế kỷ, không có bờ biển, không tài nguyên thiên nhiên, lại thêm núi non trùng điệp, vậy mà đã trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới.

lemalfrancais_page320

9. Le Mal Français: page 320 – Il n’y a sans doute pas de pays au monde où les diplômes soient mieux respectés et leur validité aussi persistante.

Dịch: Có lẽ không có nước nào trên thế giới mà người ta lại tôn thờ bằng cấp như vậy và bằng cấp lại có giá trị bền bỉ đến thế.

Tổ Quốc Ăn Năn:  trang 52 và 53 – Hình như đối với người Việt bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người “chơi bằng”. Họcó đủ loại bằng cấp… Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt.

lemalfrancais_page414

10. Le Mal Français: page 414 – Ignorance de la géographie et de l’histoire. Que “le Français ignore la géographie” était passé en proverbe chez les étrangers.

Dịch: Dốt nát về địa lý và lịch sử – Bảo rằng «người Pháp dốt đặc về địa lý» đã thành câu tục ngữ cửa miệng của người nước ngoài.

Tổ Quốc Ăn Năn: trang 118 – Quan tâm về lịch sử, nghĩa là ý niệm quốc gia, đã tới chậm như vậy lại không được coi trọng. Sử bị bỏ rơi trong hơn hai thế kỷ… Cuối cùng chúng ta không biết rõ lịch sử của mình, mà còn bị tiêm nhiễm những nhận định rất lệch lạc.

—–

11.Le Mal Français: page 414 – Ignorance de la géographie et de l’histoire. Nous répugnons à admettre des progrès évidents. Nous vivons sur des stéréotypes anciens, sans nous demander s’ils ne sont pas devenus désuets. Par exemple: “Les Français ne lisent pas.” On cite une vieille statistique, toujours la même, d’avant le livre de poche.

Dịch: Ngu dốt về địa lý và lịch sử. Chúng ta không chịu thừa nhận sự tiến bộ hiển nhiên. Chúng ta sống theo những khuôn mẫu cũ mà không tự hỏi xem nó đã lỗi thời hay chưa. Ví dụ như « Người Pháp không chịu đọc »: Họ cứ nhai đi nhai lại mãi những con số thống kê cũ rích, từ cái thuở sách bỏ túi còn chưa ra đời.

Tổ Quốc Ăn Năn:  trang 107 và trang 109 – Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng: chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết và không biết nói. Người Việt không biết truyền thông, không biết đọc, không biết viết, v.v…

lemalfrancais_page461

12.Le Mal Français: page 461 – Le propos de ce livre n’était pas d’établir un programme ou un “manifeste” mais de réfléchir et de faire réfléchir pour contribuer peut être, en suscitant un débat d’idées à nourrir les programmes et manifestes que d’autres, ensuite viendront élaborer.

Dịch: Mục đích của cuốn sách này không phải là để thiết lập một chương trình hay một “tuyên ngôn” mà là để ngẫm nghĩ, và khiến độc giả cùng ngẫm nghĩ, hy vọng tạo dịp trao đổi ý kiến, hầu đóng góp nuôi dưỡng những chương trình hay tuyên ngôn của những ai tiếp tục phát triển sau này.

Tổ Quốc Ăn Năn: trang XI – Cuốn sách này là một cuốn sách để thảo luận ý kiến, mục đích chỉ là đề xướng ra mà không kết thúc các cuộc thảo luận.

—–

Trên đây là những đoạn chúng tôi trích lại khi đọc sách của ông Alain Peyrefitte và đem so sánh với những gì đã ghi trong Tổ Quốc Ăn Năn.

Đọc hết quyển sách của ông Alain Peyrefitte, độc giả sẽ nhận thấy rằng tác giả Tổ Quốc Ăn Năn:

– không những ăn cắp ý tưởng của Alain Peyrefitte;

– mà còn ăn cắp luôn cả cách bố cục các chương đoạn;

– cũng như ăn cắp luôn cả lối hành văn.

Tác giả Tổ Quốc Ăn Năn quả là một «thiên tài»  trong nghệ thuật lấy ý kiến của người khác làm khám phá của mình (mượn lời của ông trích trang 395, khi ông nói về Marx). Ông đã vi phạm cả bốn lỗi đạo văn mà chúng tôi đã nêu trên đây, trong phần định nghĩa từ ngữ đạo văn (plagiarize) của từ điển Merriam Webster.

Trong tương lai khi có điều kiện, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa thêm những bằng chứng đạo văn của tác giả Tổ Quốc Ăn Năn trong một mục khác.

Nhà chính trị đại tài hay chỉ là kẻ đạo văn hèn mọn?

Tổ Quốc Ăn Năn đã có thể trở thành một cuốn sách tham khảo đúng đắn cho độc giả tiếng Việt, nếu như tác giả ghi rõ nguồn xuất xứ những tài liệu ông đã dùng để dẫn chứng, nhất là ghi chú rõ ràng từng ý tưởng, từng câu văn đã trích trong đoạn nào, trang nào trong Le Mal Français!

Vì không có cơ hội và điều kiện tiếp cận được với ngoại ngữ Pháp nên có một số người đã ca tụng tác giả Tổ Quốc Ăn Năn hết lời. Họ nghĩ rằng tác giả là một người uyên bác, thông thái. Và từ đó họ xem cuốn sách này là một công trình khoa học lớn.

Thật sự, độc giả đã bị đánh lừa! Nhờ vào khả năng viết, ông đã khéo che giấu việc ông đã vay mượn quá nhiều ý tưởng của tác giả quyển Le Mal Français, Alain Peyrefitte, đến độ có thể xem đây là một bản sao chép. Chỉ vì muốn quơ hết vào mình công trình sáng tác của người khác nên ông đã lờ đi không ghi xuất xứ những sách tham khảo, viện cớ là không có thời giờ. Ông khinh thường độc giả không biết tiếng Pháp và đã thừa thắng xông lên ngạo mạn ghi trên giấy trắng mực đen rằng chủ yếu viết những gì mà mình biết và nghĩ chứ không viết dựa trên tài liệu tham khảo.

Chúng tôi xin ông đừng để cho những hậu duệ sau này phải mất công tìm kiếm, lật giở từng trang để xem ông đã ăn trộm bao nhiêu câu, bao nhiêu đoạn trong suốt 525 trang sách của ông Alain Peyrefitte. Xin ông đừng để nó trở thành một vết nhơ gây tiếng xấu cho giới trí thức Việt Nam mà chính ông đã từng chửi mắng và lên án họ là nô lệ ngoại bang, thiếu óc sáng tạo. Đúng như ông nói, đây là một sự dối trá khổng lồ!

Để tiếp tục che giấu việc đạo văn, tác giả Tổ Quốc Ăn Năn đã ngụy biện rằng “những người hoạt động chính trị, nếu không có thì giờ như trường hợp của tôi, không có bổn phận phải ghi dữ kiện lấy từ sách nào, chương nào, trang nào…” . (TQAN – trang 151). Tác giả Tổ Quốc Ăn Năn, trong suốt 617 trang, chỉ nhắc đến tên ông Alain Peyrefitte lướt qua như một thí dụ, đúng một lần ở trang 21 (Trích TQAN: Có những nhà nghiên cứu xã hội lớn, như Max Weber và Alain Peyrefitte không tin như vậy và giải thích bằng lý do văn hoá) và lấp liếm khi kể tên ông Alain Peyrefitte cùng với ông Max Weber mà không hề đề cập đến việc vay mượn văn của Le Mal Français. Mục đích chỉ để đề phòng, nếu sau này có ai đề cập đến việc đạo văn thì ông có thể ngụy biện là có nói đến tên tác giả này.

Ngoài ra ông có biệt tài mượn tên những người nổi tiếng để tạo trọng lượng cho sách của mình. Trong trang 575 và 576 cuốn Tổ Quốc Ăn Năn, ông có nhắc đến cuốn sách “Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils?” và nói rằng đã gặp và thảo luận với tác giả. Thay vì ghi là Pierre Darcourt, ông ghi là Pierre d’Harcourt. Điều này chứng tỏ ông không hề đọc quyển sách này và không tôn trọng ông Pierre Darcourt. Điều tối thiểu khi nhắc đến một tác phẩm thì phải ghi chính xác tên của tác giả. Ông đã không làm điều này. Độc giả có quyền đặt nghi vấn là ông có thực sự gặp tác giả này hay không, vì ông đã ghi sai tên của ông Pierre Darcourt không những một lần mà đến năm lần.

Trong những năm qua, chúng tôi và nhiều người đã lầm tưởng ông là một con đại bàng, nhưng ông đã lộ nguyên hình một con tu hú lén lút đi mượn tổ của Alain Peyrefitte. Đành rằng ông học thuộc bài vở của Trần Dân Tiên, nhưng xem ra trò này đã vượt xa trình độ của thầy xưa!

Để bước sang một năm mới trong tinh thần lương thiện và lành mạnh, lật sang một trang sử mới trong việc xây dựng tổ chức, tạo nấc thang cho tiến trình dân chủ hóa đất nước, chúng tôi mời tác giả Tổ Quốc Ăn Năn hoàn trả cho ông Alain Peyrefitte những gì của ông Alain Peyrefitte.

Nguyễn Gia Thưởng
Đầu năm Đinh Dậu (2017)

 

ĐẢNG CSVN, NGÃ BA ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Tiêu chuẩn
Bài rất dài của FBker Lang Anh, tui gom về cho quý bà con nào thích thì theo dõi. Còn nếu ai có hứng thú tìm hiểu về con người (bí ẩn) này thì mới vào trang của ổng hén. https://www.facebook.com/Langlanhtu?fref=ts

ĐẢNG CSVN, NGÃ BA ĐƯỜNG LỊCH SỬ: TỒN TẠI VÀ DIỆT VONG?

VaDang

Tranh minh hoạ của KVC

Phong trào cộng sản toàn cầu, được khởi xướng từ những nhà tư tưởng thủy tổ là Marx và Engels, cho đến khi được nhào nặn thành một nhà nước thực tế bởi một người có tư duy thực dụng là Lenin, đã trải qua một thời kỳ dài với những phép thử liên tiếp về mặt tư tưởng. Hầu hết những lý luận cốt lõi của lý thuyết cộng sản đều khá mù mờ, với nền tảng là một xã hội ảo tưởng dựa trên khao khát và hiện nay thì đã bị phủ nhận hoàn toàn. Trong khi đó, con đường mà những đệ tử của Marx tìm cách đến với xã hội chỉ có trong mơ đó thì lại đầy rẫy sai lầm. Kết quả của những phép thử về mặt tư tưởng này là một thế giới bị cày xới bởi những biến động xã hội sâu sắc. Có nhiều triệu sinh mạng đã phải trả giá trong những cuộc chiến đẫm máu, nhiều quốc gia chìm vào vài chục thập niên trong bóng tối để đến lúc nhận ra thì đất nước đã phải trả giá nặng nề và họ lại phải bắt đầu lại từ vạch xuất phát, trong khi phần còn lại của thế giới đã có những bước tiến quá xa trong lộ trình hướng tới văn minh.

Thời hoàng kim của những lý thuyết cộng sản là những năm 1960. Khi đó người ta thống kê được trên dưới 100 quốc gia áp dụng theo hoặc mô phỏng theo các mô hình tổ chức xã hội mang sắc thái cộng sản. Sự đào thải của thực tế là một phép thử rất đắt giá. Ngày nay chỉ còn năm quốc gia tự nhận là hậu duệ của những nhà cách mạng cộng sản, gồm Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Lào và CuBa. Toàn bộ các chế độ cộng sản còn lại đều đã bị lịch sử đào thải. Với 5 chế độ cộng sản còn đang thoi thóp, họ cũng chẳng còn chút bóng dáng nào của những mô hình xã hội mà họ tuyên bố kế thừa. Cốt lõi lý luận của họ đều đã bị chính họ đào thải về mặt thực tiễn, phần còn lại chỉ là một xã hội lai căng quái đản giữa thể chế cai trị độc tài và nền kinh tế thị trường vay mượn từ các nước phương tây. Trong năm quốc gia đó, Trung Quốc đạt được những bước tiến rất mạnh mẽ trong khoảng 45 năm qua và hiện được coi là cường quốc số hai thế giới. Việt Nam có những cải cách vay mượn học theo ở một trình độ thấp hơn và lọt tốp các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, trong khi đó, Bắc Triều Tiên thoái lui trở lại thành một xã hội phong kiến, hai quốc gia kế chót còn lại thì đang ngấp nghé bởi những trào lưu hứa hẹn sự tan rã của các chính thể độc tài.

Sự phát triển của Trung Quốc thường được các tay tuyên huấn cộng sản tuyên truyền như một khởi đầu mới của các lý thuyết cộng sản. Trên thực tế, chính bản thân những nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc cũng hiểu rất rõ họ đang đối mặt với sự sụp đổ từ bên trong, và thời gian tồn tại của nền cái trị độc tài cộng sản ở quốc gia này là một chiếc đồng hồ đếm ngược. Sự lai căng quái đản giữa mô hình cái trị độc tài và nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam đã tạo ra những vấn nạn mà các chế độ này không thể tự giải quyết được. Toàn bộ nền tảng lý luận của họ đã bị thực tế phủ nhận và lộ rõ tính ảo tưởng, những đảng viên từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất lâm vào sự khủng hoảng khi không còn lý tưởng soi đường. Trong khi đó, quyền lực độc tài và những món lợi kinh tế được tạo ra từ sự cấu kết giữa quyền lực chính trị và các hoạt động kinh tế tư bản rừng rú đã khiến bộ máy cai trị của họ tha hoá nhanh chóng đến tận gốc rễ. Trên thực tế, tất cả các đảng viên từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất tại Trung Quốc và Việt Nam đều không sống bằng những nguồn thu nhập công khai, họ vơ vét tiền và làm giàu nhanh chóng từ những lợi thế quyền lực và thông tin mà chế độ ban phát cho họ. Bằng cách vay nợ và đánh đổi các giá trị môi trường, Trung Quốc đạt được nhiều thành tích kinh tế ngắn hạn, nhưng đi kèm với nó là sự tha hoá của toàn bộ đội ngũ cầm quyền. Tập Cận Bình khá thực lòng khi phát biểu công khai trong một hội nghị cấp cao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào năm 2012: “Chúng ta đang phải dựa vào một đội ngũ tội phạm để cai trị đất nước”

Hầu như không còn ai tại Trung Quốc và Việt Nam còn tin rằng chế độ cai trị có thể trường tồn. Câu cửa miệng của các quan chức Trung Quốc khi gửi vợ con và các tài sản vơ vét được ra nước ngoài là: “Cũng chẳng còn được lâu nữa đâu”. Trên thực tế các xã hội như Trung Quốc và Việt Nam từ lâu đã biến thành những xã hội phân biệt đẳng cấp sâu sắc. Nếu có những thống kê thực tế về tài sản của các Đảng viên Đảng cộng sản cỡ trung cao cấp và toàn bộ phần còn lại của đất nước thì chắc chắn rằng hầu hết các tài sản và nguồn lực kinh tế của những quốc gia này đều nằm dưới sự chi phối, sở hữu và thao túng của các hậu duệ cộng sản. Khởi nguồn từ những cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng hiện nay chính họ lại là một giai cấp mới, sở hữu hầu kết các nguồn lực kinh tế và sở hữu tuyệt đối về quyền lực chính trị. Tất nhiên, kiểu tồn tại của họ sẽ không thể lâu dài, vì tự thân nó là nguyên nhân của sự diệt vong. Vậy nhưng các nhà nước cộng sản tại Trung Quốc và Việt Nam vẫn đang tồn tại và cố tìm mọi cách níu kéo quyền lực của mình.

Bằng cách tận diệt tài nguyên và đánh đổi các giá trị môi trường, Trung Quốc tạo được nhiều thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế ngắn hạn. Đây được coi là thứ bùa thiêng để các nhà tuyên huấn của Đảng Cộng Sản Trung Quốc tuyên truyền nhằm duy trì tính chính danh của mình. Tuy nhiên, đó là sự phát triển không có ngày mai vì đó là sự vay mượn tận diệt từ tương lai để đốt hết cho hiện tại. Trong lúc các vấn nạn về tham nhũng, tha hoá, bất bình đẳng và sự kìm kẹp xã hội đến nghẹt thở càng lúc càng nặng nề. Ở chiều ngược lại là một nền tảng dân chúng ngày một khao khát tự do. Một điều gần giống như thế cũng diễn ra ở Việt Nam, tuy nhiên chế độ cộng sản ở Việt Nam kém thành công hơn trong việc tạo ra các thành tích kinh tế ngắn hạn (điều không may) và đồng thời cũng kém thành công hơn trong việc bóp nghẹt sự giao lưu về các lý tưởng tự do (điều may mắn). Giữa hai chế độ độc tài cộng sản có thể coi là còn hùng mạnh này, Việt Nam có nhiều cơ sở để tạo ra sự đổi thay nhanh hơn Trung Quốc.

Mặc dù biết chắc phía trước là vực thẳm, nhưng đội ngũ lãnh đạo chóp bu ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều tin rằng họ có thể trì hoãn được thời gian. Những nỗ lực của họ không phải để hướng tới tương lai mà là để kéo dài cái chết. Điểm kết cuối cùng là những tay cộng sản nặng túi sẽ tìm cách đào thoát khỏi con tàu sắp đắm. Còn những gì diễn ra sau lưng thì có lẽ đúng với câu ngạn ngữ cổ xưa: “Khi trẫm đã thôi trị vì thì dẫu có nạn hồng thủy trên vương quốc cũng mặc”. Có những cách thức để họ có thể thay đổi và trì hoãn ngày tàn, và đó cũng chính là thứ mà các tay lý luận cộng sản cố gắng tìm kiếm. Bài viết này sẽ bàn đến những cách thức đó.

(Đêm đã khuya và đầu thì đang quay quay rồi, xin nợ các bạn phần còn lại vào ngày mai).

(Tiếp theo)

Những người cộng sản ở hầu hết các nước đều giành được quyền cai trị theo những cách thức giống hệt nhau. Bằng những khẩu hiệu tuyên truyền về một xã hội ảo tưởng, họ đặt trước mặt những người nghèo và thất học một cái bánh vẽ và xúi họ vào lò lửa chiến tranh. Tuy nhiên cơn điên dại tập thể cuối cùng cũng qua đi và hầu hết người dân nhận ra mình đã bị lừa vì không hề thấy sự bình đẳng cũng như phồn thịnh ở đâu mà chỉ thấy những ông chủ mới. Cho đến khi hàng loạt chế độ cộng sản sụp đổ vào cuối những năm 1980, nhân loại và chính người dân các nước đó đã phải trả những cái giá quá mức nặng nề. Dẫu sao họ đã gặp may vì cuối cùng cũng thoát khỏi một thứ quái vật ghê sợ trong lịch sử.

Tôi không phủ nhận rằng đã có những lớp người cộng sản sống vì lý tưởng với niềm tin cuồng tín rằng mình duy nhất đúng. Họ sẵn sàng phạm những tội ác không ghê tay để tiêu diệt và buộc những người khác phải nghe mình. Giữa những người cộng sản cuồng tín thời kỳ đầu và những tay đao phủ của nhà nước hồi giáo IS hiện nay có sự tương đồng giống hệt nhau: Khi cắt cổ người, chúng đều cho rằng mình đang làm vì điều đúng.

Với thứ bùa thiêng về một xã hội ảo tưởng, nơi con người có thể hưởng thụ theo nhu cầu bất chấp năng lực tạo ra của cải, những người cộng sản thế hệ đầu đã rất thành công trong việc nhồi sọ và lôi kéo con người. Họ đặc biệt thành công ở những xã hội đói nghèo với nền tảng dân trí thấp. Nhưng có lẽ khả năng trại lính hoá xã hội, triệt hạ tri thức độc lập mới là thứ vũ khí siêu hạng của những người cộng sản. Lenin và những đệ tử của ông ta đã diệt không gớm tay những người Mensevich và Trotsky, dù họ cùng là những đệ tử của Marx. Tất nhiên là bằng chuyên chính vô sản, số phận của trí thức và những kẻ thù giai cấp còn lại thì cực kỳ thê thảm. Mao Trạch Đông diệt hàng chục triệu người và tận diệt mọi tri thức đối lập cũng như các đối thủ chính trị trong Đại Cách Mạng văn hoá. Ở Việt Nam, ông Hồ Chí Minh cũng dìm chết mọi tư tưởng độc lập bằng cuộc thanh trừng nhân văn giai phẩm. Họ hành động rất giống nhau dù quy mô khác biệt nhau và mục đích thì chỉ có một: Tạo ra một xã hội tê liệt về tư duy và chỉ biết cúi đầu. Ở đây có lẽ nên có một nhận xét công bằng, Hồ Chí Minh không tàn bạo như hai tiền bối của ông ta. Trong hầu hết trường hợp, Hồ Chí Minh luôn tìm cách nấp phía sau giật dây và đẩy thuộc cấp ra hứng chịu búa rìu (Trường Chinh với cải cách ruộng đất, Tố Hữu với nhân văn giai phẩm).

Tuy nhiên những xã hội cộng sản đời đầu nhanh chóng đối diện với thực tại mà họ không thể vượt qua. Do xuất phát từ một lý tưởng sai lầm, họ thất bại trong việc tạo ra đủ của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mục tiêu về sự công bằng thì lại càng xa vời vì cách thức họ kiểm soát quyền lực độc tài tự thân nó là gốc rễ tạo ra bất bình đẳng. Cuối năm 1980, sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản đánh dấu sự cáo chung của phong trào cộng sản toàn cầu.

Trong lúc đó, những người cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam loay hoay tìm cách thay đổi để kéo dài thời gian cai trị. Họ thấy rằng có thể vay mượn nền kinh tế thị trường vốn có năng lực nổi trội để tạo ra của cải ở phương Tây, và dựa vào đó làm bầu sữa nuôi sống cho bộ máy cai trị độc tài của mình. Trung Quốc tiến hành những cải cách cho phép sự hiện diện của đầu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân vào cuối những năm 1970. Việt nam nối gót chậm hơn, vào khoảng cuối những năm 1980. Cả hai chế độ cộng sản này đều gặp may, vì các nước phương Tây sau khi chứng kiến sự tan rã của hàng loạt nhà nước cộng sản đã cho rằng sớm muộn gì Trung Quốc hay Việt Nam cũng sẽ phải từ bỏ con đường bế tắc ấy. Vốn nước ngoài và công nghệ đổ vào những đất nước này và tạo ra những nguồn lực mới. Trong khi đó việc giành được quyền tồn tại cũng khiến các lực lượng tư nhân tham gia vào việc tạo ra của cải. Tuy nhiên đây cũng là lúc đánh dấu sự tuyệt chủng của những người cộng sản cuối cùng. Các lợi ích kinh tế được tạo ra cùng với quyền lực độc tài không được kiểm soát đã khiến toàn bộ đội ngũ cai trị tại Trung Quốc và Việt Nam nhanh chóng thoái hóa và đánh mất chút niềm tin lý tưởng cuối cùng. Kết quả là họ trở thành một tập đoàn tội phạm gắn kết với nhau bởi những khẩu hiệu chẳng ai còn tin và các món lời được tạo ra từ bòn rút ngân sách, từ việc lạm dụng quyền lực hoặc kiếm lợi từ lợi thế thông tin bất bình đẳng. Thực tế chế độ cộng sản đã chết từ lâu ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, còn lại chỉ là một tập đoàn cai trị độc tài tham nhũng dưới cái vỏ cộng sản.

Hai thứ bùa thiêng từng giúp những người cộng sản nắm quyền là cái bánh vẽ về một xã hội bình đẳng thì nay đã chẳng còn lừa gạt được ai khi chính họ đang là một đẳng cấp ưu tiên với mọi đặc quyền. Tuy nhiên, thứ vũ khí siêu hạng còn lại là kiểm soát thông tin và tiêu diệt mọi trí thức có năng lực tư duy độc lập thì họ vẫn đang làm rất tốt. Trung Quốc kiểm soát mạng xã hội cực kỳ ngặt nghèo và thanh trừng khốc liệt mọi trí thức đối lập. Việt Nam cũng đàn áp và triệt hạ không tiếc tay mọi trí thức phản biện với hàng loạt án tù. Bên cạnh đó, họ vẫn tiếp tục cố gắng duy trì hoạt động tuyên truyền để có thể lừa gạt càng lâu càng tốt những thành phần dân trí thấp nhằm kéo dài thời gian tồn tại. Tất nhiên đó là những nỗ lực không có ngày mai vì theo thời gian, khi chứng kiến tình trạng tham nhũng lan tràn, khi đối diện với sự tận diệt môi trường, những món nợ khổng lồ mà những tay cộng sản tham nhũng mang về cho đất nước, sự tuyên truyền của bộ máy cộng sản ngày một mất thiêng. Và cuộc cách mạng Internet đã bồi thêm những đòn trí mạng vào bức màn sắt kiểm duyệt tư tưởng và tuyên truyền của những chế độ cộng sản. Họ càng lúc càng mất khả năng kiểm duyệt và bóp nghẹt các luồng tư tưởng tự do. Bên cạnh đó chính nền kinh tế thị trường mà họ vay mượn từ các xã hội phát triển phương tây đã tạo ra sự hội nhập và giao lưu văn hoá mà họ không thể chặn lại được. Vấn đề mà tất cả các lãnh tụ cộng sản đều nhận ra: Không phải là có tồn tại được hay không mà là còn tồn tại được bao lâu nữa?

Những căn bệnh trầm kha mà Trung Quốc và Việt Nam đang mắc phải gần như giống hệt nhau. Một bộ máy tha hoá tham nhũng đến tận gốc rễ với hiệu năng cai trị ngày càng suy giảm. Các nguồn tài nguyên cạn kiệt và môi trường bị tàn phá nặng nề đến mức mất khả năng duy trì cuộc sống thông thường. Tình trạng bất công lan tràn với nạn lạm dụng quyền lực của bộ máy cai trị đã bị lưu manh hoá. Gánh nặng nợ công đè ngập cổ người dân cộng với mức thuế phí nặng nề trong khi các dịch vụ an sinh xã hội vô cùng tồi tệ.

Nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ 5 của chế độ cộng sản Trung Quốc là Tập Cận Bình cố gắng tìm lối thoát bằng một cuộc đại thanh trừng với chiến dịch đả hổ diệt ruồi, nhắm mục tiêu vào những đối thủ chính trị của ông ta và những thành phần quan chức tham nhũng không nằm trong phe cánh của Tập. Nhưng hơn ai hết Tập Cận Bình hiểu rất rõ rằng ông ta đang dựa vào một phe cánh tham nhũng để triệt hạ phe cánh còn lại. Cái gọi là đấu tranh tham nhũng của Tập Cận Bình tự thân nó thất bại ngay từ đầu khi không giải quyết được sự cai trị độc tài: Quyền lực độc tài không được kiểm soát tự thân nó là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Tập triệt hạ được một phe nhưng nếu Tập tước đoạt quyền lợi hoặc chĩa mũi dùi vào phe cánh đang phò trợ ông ta thì khi đó cái gì sẽ bảo vệ được Tập?

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sau khi thanh trừng được đối thủ chính trị lớn nhất của mình tại đại hội XII có vẻ cũng muốn thừa thắng xông lên với một chiến dịch học theo Tập Cận Bình. Nền chính trị của Việt Nam có độ tản quyền cao hơn và do đó dù có học theo thì Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chẳng diệt nổi muỗi, chưa nói gì đến ruồi hay hổ. Và mục đích chống tham nhũng tự thân nó mâu thuẫn ngay từ đầu với nền chính trị độc tài.

Lá bài nguy hiểm nhất của Tập Cận Bình nhằm kéo dài thời gian cai trị lại chẳng dính dáng gì đến bộ máy nhà nước hay các tư tưởng tự do. Nó chính là chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đã nối tiếp nhau vun xới như một giải pháp dự phòng cho các bất ổn xã hội.

(Khá dài rồi, đành nợ các bạn phần kế tiếp vào ngày mai. Dù sao tôi vẫn còn vài ngày nghỉ nữa 🙂 )

(Tiếp theo)

Chính sách dân tộc và chủ nghĩa bành trướng của Đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay vừa là một nguy cơ sinh tồn nhưng cũng đồng thời là bình tiếp oxy hà hơi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý nhưng lại là sự thật.

Đất nước Trung Quốc quá lớn, quá đông dân và quá phức tạp. Trong nhiều thiên niên kỷ, người Trung Quốc tồn tại bằng các cuộc chiến tranh xâm lược nối tiếp nhau. Văn hoá của họ được xây dựng trên nền tảng của lối tư duy nô dịch. Vì thế hầu như khó có thể có cơ may nào cho Trung Quốc chuyển hoá sang một thể chế dân chủ trong hoà bình trong ít nhất 30 năm tới. Do đặc tính dân tộc và tính phức tạp của đất nước này, những người cộng sản ở Trung Quốc hiện nay đối diện với nguy cơ bị tàn sát hàng loạt nếu họ để mất dây cương. Riêng cá nhân tôi cho rằng nếu biến động xã hội xảy ra ở Trung Quốc, nó sẽ khiến đất nước này bị chia nhỏ làm nhiều phần. Đó sẽ là câu chuyện trong một tương lai xa. Còn hiện tại, với tư cách là một đại cường, Đảng cộng sản Trung Quốc có nhiều giải pháp để duy trì sự tồn tại của mình hơn là Việt Nam. Nguy cơ Trung Quốc tiến hành các cuộc chiến tranh quy mô nhỏ trong khoảng 10 năm tới là rất cao, và nó sẽ là một công cụ mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc vận dụng thường xuyên để đánh lạc hướng và xoa dịu các bất ổn chính trị trong nước. Có thể thấy rõ điều đó qua các phát ngôn ngày càng kiên quyết của Tập Cận Bình về các vùng lãnh thổ tranh chấp. Đó không phải là vấn đề quyền lợi quốc gia, nó giống một chiếc phao cứu sinh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong bối cảnh ngày một mất dần tính chính danh trước xu thế thời đại. Chế độ cộng sản ở Trung Quốc rồi sẽ kết thúc, nhưng nó sẽ không chết một mình trước khi gây ra những tổn thương sâu sắc cho phần còn lại của thế giới và cho chính người dân Trung Quốc. Thế giới cần ý thức rất rõ về điều này.

Là một nước có đường biên hàng ngàn km với Trung Quốc và có một quan hệ lịch sử phức tạp với dấu ấn nổi trội là chiến tranh, quan hệ giữa hai chế độ cầm quyền hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam rất phức tạp. Một mặt, họ luôn giống nhau, trước đây là vì ý thức hệ cộng sản cổ điển, giờ đây là sự tương đồng về mô hình cai trị tham nhũng độc tài. Điều đó khiến chế độ cộng sản tại TQ và Việt Nam luôn có nhu cầu tìm đến nhau như những đồng minh thiên nhiên trong bối cảnh thế giới coi họ là những tồn tại khuyết tật của lịch sử. Mặt khác, do là những đại diện cầm quyền tại hai quốc gia giáp giới với những lợi ích đối kháng nhau về lãnh thổ, khiến hai chế độ cầm quyền này không thể không có những va chạm đôi khi đẫm máu. Ở đây tôi muốn dừng lại một chút để nói về những cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam trong thế kỷ trước mà Đảng Cộng Sản vẫn luôn dựa vào đó để đề cao tính chính danh của mình. Chính điều này sẽ giải thích đầy đủ cho mối liên kết bất thường giữa chế độ cộng sản tại Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Là người truyền bá các học thuyết cộng sản vào Việt Nam, nhưng ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ là một người cộng sản đúng nghĩa. Tất cả các trước tác ông ta để lại đều cho thấy khó có thể nói ông Hồ am hiểu sâu các tư tưởng của Marx và Engels. Tôi thậm chí tin rằng cả cuộc đời mình chưa bao giờ ông Hồ đọc hết bộ Tư Bản Luận. Trong hồi ức được thuật lại, chính ông Hồ thừa nhận rằng ông ta đến với chủ nghĩa cộng sản chỉ vì đọc được luận cương “Dân tộc và thuộc địa” của Lenin, trong đó có đề cập đến việc xây dựng một liên minh cộng sản để giải phóng giai cấp và giải phóng các nước thuộc địa. Chủ nghĩa yêu nước là thứ đã thôi thúc ông Hồ, cho đến khi ông ta tiếp cận các lý thuyết cộng sản. Việt Nam có một lịch sử lập quốc hơn 2000 năm, trải qua vô số cuộc chiến tranh chống xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước là một giá trị cốt lõi luôn hiện diện trong huyết quản người Việt. Sự tồn tại của lòng yêu nước vốn độc lập với các lý thuyết cộng sản. Những người lính đã chiến đấu ở miền Bắc và cả những người lính đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam, tôi tin rằng họ đều được thôi thúc bởi lòng yêu nước, vốn được truyền đời qua nhiều thế hệ. Họ đứng ở hai phía khác nhau vì những giá trị quan khác nhau và do sự chi phối của những người cầm đầu. Cuộc chiến ấy miền Bắc đã thắng. Nguyên nhân đã được phân tích rất kỹ càng bởi giới sử gia đông tây, tôi sẽ không lặp lại. Nếu cần có một nhận xét về sự kiện thống nhất 30/04/1975, tôi có thể nói thế này: “Một xã hội văn minh hơn đã bị đè bẹp bởi một xã hội dã man hơn”. Sức mạnh quân sự không phải lúc nào cũng đi kèm với trình độ văn minh, ví dụ cho điều đó trong lịch sử đã có rất nhiều. Ví dụ như cuộc xâm lược khắp Á Âu của đội quân du mục của Thành Cát Tư Hãn với những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật và văn minh tiên tiến hơn nhiều. Riêng với Việt Nam, 30 năm sau ngày 30/04/1975, đất nước quay lại với những nền tảng căn bản mà người Việt Nam đã đạt được ở miền Nam trước năm 1975, một sự tụt lùi sâu sắc của lịch sử.

Có 4 triệu người đã chết trong cuộc chiến giành độc lập và thống nhất ở Việt Nam. Hầu hết những người lính đã hy sinh ở Điện Biên Phủ, ở Khe Sanh, ở Nam Lào và ở những cung rừng hẻo lánh Trường Sơn đều không phải là đảng viên cộng sản. Họ chiến đấu thuần tuý vì lòng yêu nước. Thậm chí ngay cả những người được kết nạp Đảng tại mặt trận lúc đó, họ cũng chẳng dính dáng hay hiểu gì về các tư tưởng cộng sản. Những người lính ấy đã chiến đấu và chết vì một lý do duy nhất là lòng yêu nước. Chính ở đây là một sự nhập nhèm của những người cộng sản. Lòng yêu nước đã làm nên chiến thắng 30/04/1975 chứ không phải chủ nghĩa cộng sản. Và bản thân lòng yêu nước thì đã luôn hiện diện ở Việt Nam trước, trong và sau khi những lý thuyết cộng sản đến đất nước này. Tôi tin rằng dù có hay không những người cộng sản ở Việt Nam thì đất nước cũng vẫn cứ giành được độc lập bằng cách này hay cách khác, dù là theo lối chiến tranh hay hoà bình, vì người Việt sẽ luôn không ngừng đòi hỏi nền độc lập. Trên thực tế, hầu hết các nước thuộc địa trên thế giới sau này đều đạt được độc lập mà chỉ số ít phải dùng tới chiến tranh. Và vấn đề chính ở đây là những người cộng sản đã tìm cách đánh đồng chủ nghĩa cộng sản (vốn là một thứ ngoại lai) với chủ nghĩa yêu nước (là thứ luôn sẵn có), và quy toàn bộ công lao giải phóng đất nước cho chủ thuyết của họ.

Mượn sức mạnh của lòng yêu nước để đạt được quyền lực và thiết lập được chế độ cai trị, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam đánh cắp luôn chiến thắng ấy bằng cách ghi quyền cai trị của họ vào hiến pháp sau ngày thống nhất. Xương máu và tổn thất thuộc về toàn bộ người Việt Nam, nhưng thắng lợi thì chỉ thuộc về mình Đảng Cộng Sản. Trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng chỉ có Việt Nam và Trung Quốc là ghi áp đặt quyền cai trị của một Đảng cầm quyền vào hiến pháp. Người dân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập, đổi lại là một sự cai trị áp đặt của Đảng cộng sản. Hơn 40 năm qua, họ chẳng có cơ hội lựa chọn nào khác. Đây là một trong những bi kịch lịch sử cay đắng nhất của người Việt.

Tuy nhiên, chúng ta cần công bằng với lịch sử. Tôi tin rằng ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản đời đầu đều là những người yêu nước. Chỉ có điều họ đã nhanh chóng đặt Đảng lên trên đất nước ngay khi giành được chiến thắng. Và di sản mà họ để lại đã gây tai họa cho lịch sử đất nước trong nhiều chục năm sau này.

Chế độ cầm quyền hiện nay kế thừa di sản của những người cộng sản đời đầu. Họ hiểu rất rõ là người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận bất cứ một chế độ cai trị nào làm tổn hại độc lập hay chủ quyền quốc gia. Và chính đây là lý do dẫn đến mối quan hệ rất phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc. Một mặt thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn có lý do để xích gần Trung Quốc, khi họ là những thứ tồn tại bị thế giới coi là dị dạng, họ có nhu cầu xiết chặt tay nhau. Đó là lý do ông Nguyễn Văn Linh tìm cách bắt tay với TQ bằng mọi giá ở hội nghị Thành Đô, khi hàng loạt chế độ cộng sản trên thế giới sụp đổ. Mặt khác, chế độ Việt Nam không thể không đối đầu với Trung Quốc khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Đây chính là lý do mà chủ quyền Việt Nam cứ từng bước bị tổn thất bởi Trung Quốc trong hơn 30 năm qua, khi bản thân Đảng cầm quyền luôn bị giằng xé giữa việc xích gần kẻ xâm lược và sức ép bảo vệ chủ quyền đến từ phía người dân.

Chủ nghĩa bành trướng hiện là một cứu cánh để kéo dài thời gian cái trị của chế độ cộng sản Trung Quốc, nó khiến chế độ cộng sản Việt Nam đối mặt với nguy cơ lớn nếu để mất chủ quyền. Tuy nhiên cũng chính sức ép này hiện là một trong những công cụ tuyên truyền của chế độ Việt Nam, theo đó quyền cai trị của họ cần được giữ nguyên nếu không đất nước sẽ bất ổn và bị thôn tính. Tôi sẽ quay trở lại câu chuyện về luận điệu tuyên truyền này ở phần kế tiếp.

(Tiếp theo)

Trước khi viết những dòng cuối cùng trong loạt bài này, tôi muốn chia sẻ với các bạn đôi điều. Trên thực tế đối tượng chính nhắm tới của loạt bài viết này là những người cộng sản. Tôi muốn phân tích rõ thực trạng của quá khứ và hiện tại để họ thấy rõ sự ảo tưởng của những người tiền bối của họ và việc hiện nay họ đã bị tội phạm hoá và tha hoá ra sao. Đồng thời tôi cũng muốn làm rõ một thực tế: “Chế độ cai trị này không thể trường tồn”. Họ phải thừa nhận thực tế đó, để hoặc cùng tham gia vào kiến tạo tương lai với phần còn lại của đất nước, khi đó họ sẽ vẫn còn chỗ trong tương lai, hoặc cứ tiếp tục mù quáng tiếp tục đi trên con đường tội phạm và sai lầm hiện tại. Điểm kết cuối cùng sẽ là một cuộc chiến tương tàn, ngoại bang xâm lấn chủ quyền và bản thân họ, với tư cách những kẻ tội đồ mất khả năng cải tạo, bị tàn sát hàng loạt. Tôi cũng không cho rằng những kẻ độc tài chóp bu có cơ hội chạy trốn ra nước ngoài. Kadafi, Saddam Husein, sau những tội ác ghê rợn gieo rắc cho người dân, sở hữu tới hàng chục và hàng trăm tỷ USD, nhưng đều bị tận diệt. Chế độ cộng sản ở TQ có lẽ sẽ tồn tại lâu hơn Việt Nam, nhưng tôi không hình dung ra viễn cảnh các tay cộng sản chóp bu sẽ chạy trốn sang TQ, đó chẳng qua là một địa ngục khác mà sớm muộn cũng thành biển máu mà thôi.

Trong quá trình sắp xếp tư duy cho loạt bài viết này, tôi cũng mong rằng bất cứ ai khác cũng có thể tìm thấy ở đó những kiến giải khác về những sự kiện lịch sử đã và đang diễn ra. Tất nhiên, quá khứ và hiện tại sẽ là cơ sở để soi đường cho tương lai. Qua những mất mát, cay đắng và sai lầm, chúng ta sẽ biết đâu là con đường cần đi và điều gì người Việt Nam cần hướng tới.

Tôi muốn làm rõ một thực tại cuối cùng trước khi đi vào mạch trao đổi kế tiếp: Những người cộng sản thế hệ của ông Hồ Chí Minh, khi tin vào lý thuyết cộng sản, bản chất là đã tin vào một con đường không có lối ra. Lý thuyết của Marx về một xã hội công bằng tuyệt đối là một sự lừa bịp và ảo tưởng. Chừng nào loài người còn tồn tại, sẽ luôn có sự khác biệt giữa người với người. Có những người có năng lực tạo ra của cải cao hơn, và do đó họ sẽ phải có quyền thụ hưởng cao hơn người khác. Sẽ là cực kỳ vô đạo đức và cực kỳ đê tiện nếu người ta bắt những người như Bill Gate hay Steve Job phải có mức thụ hưởng cào bằng như bất cứ ai, trong khi đóng góp của họ cho văn minh nhân loại là vượt trội so với đại chúng. Nếu ngay tại thời điểm này, toàn bộ của cải của thế giới được chia đều cho bất cứ ai tồn tại trên trái đất, thì chỉ một giây sau, sẽ lại có sự chênh lệch giữa người với người. Vì những người có năng lực sáng tạo và tài năng hơn, sẽ luôn tạo ra được của cải nhiều hơn trên những gì họ có. Một xã hội theo hình dung của Marx chỉ là một xã hội ảo tưởng và hoàn toàn lừa phỉnh. Ngay cả việc những kẻ cuồng tín cộng sản có nắm được quyền hành và chia đều tất cả của cải, thì ách cai trị của chúng sẽ chỉ dẫn tới sự triệt tiêu sáng tạo của nhân loại: “Những người tài năng hơn sẽ lười đi vì họ không thể cứ mãi làm cho người khác hưởng, còn những kẻ lười biếng sẽ càng lười hơn vì chúng sẽ trông đợi người khác tạo ra của cải để chia cho mình”. Sự thất bại của Liên Xô, Việt Nam và tất cả các nước cộng sản trong quá khứ trong việc tạo ra các giá trị vật chất so với phương tây có căn nguyên gốc rễ chính từ sự ảo tưởng và bịp bợm ngay từ đầu trong lý thuyết mà họ tôn sùng. Tôi có một hình dung rất rõ ràng về tương lai nhân loại, đó sẽ là một xã hội văn minh, khuyến khích sự sáng tạo của con người. Những người tài năng và chăm chỉ sẽ vẫn luôn có sự thụ hưởng vượt trội đám đông. Ngược lại, các chính sách xã hội và tái phân phối thu nhập sẽ điều tiết một cách nhân văn, để bất cứ công dân nào của nó cũng có cơ hội có một mức sống tối thiểu, được học hành, được chăm sóc y tế, bình đẳng trước luật pháp, và điều quan trọng nhất là họ sẽ có cơ hội được vươn lên trong nhóm Top đầu, khi họ có tài và chăm chỉ. Hiện nay nhiều xã hội phương Tây, đều đã ngấp nghé xây dựng được những cơ sở có thể nói là bền vững cho một xã hội như vậy. Và chắc chắn đó không phải là thứ chủ nghĩa cộng sản ảo tưởng, vốn đã gây bao tai họa cho nhân loại của Marx cũng như những đệ tử của ông ta.

Quay lại Việt Nam, tôi cho rằng những người cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên là những người yêu nước và có lý tưởng. Nhưng họ chính là một đám cuồng tín luôn tin rằng mình duy nhất đúng và sẵn sàng tiêu diệt không thương tiếc những ai khác ý kiến với mình. Về mặt này, họ không khác gì nhà nước hồi giáo IS hiện nay, chúng phạm những tội ác không gớm tay nhưng vẫn luôn tin rằng mình đúng. Tôi kính trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông ấy là một danh tướng và là một anh hùng dân tộc. Nhưng cũng chính ông Giáp là người đã tiến hành những chiến dịch tàn sát thẳng tay với những người Quốc dân đảng vào năm 1946, khi họ cũng có chân trong chính phủ lâm thời. Họ vốn là hậu duệ của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học và nhiều tiền bối khác, nhưng họ có niềm tin lý tưởng khác những người cộng sản. Lịch sử sẽ ghi công ông Giáp với tư cách một anh hùng, nhưng cũng chính niềm tin cuồng tín là thứ thúc đẩy ông ta phạm vào những tội ác ghê gớm với chính đồng bào mình. Những vụ trấn nước, thủ tiêu, ám sát của những người cộng sản cuồng tín giết hại một số lượng không nhỏ người Việt Nam, và phần lớn trong số đó cũng chính là những người yêu nước. Một lý tưởng sai lầm và sự cuồng tín mê muội chính là đặc trưng căn bản của những người cộng sản thế hệ của ông Hồ Chí Minh. Họ để lại một di sản sai lầm và những kẻ hậu duệ của họ biến đi sản ấy thành một thứ quái vật tiêu diệt mọi tiềm năng đất nước.

Khi những hậu duệ cộng sản ở Việt Nam lựa chọn nền kinh tế thị trường và cố bấu víu nền cai trị độc tài, họ đã vi phạm mọi nguyên tắc căn bản nhất để tạo ra một xã hội minh bạch và công bằng về mặt cơ hội phát triển cho con người (tôi muốn nhấn mạnh là công bằng về cơ hội phát triển cho con người, chứ không phải công bằng về thụ hưởng). Bộ máy cai trị độc tài với quyền lực không được kiểm soát, đã nhanh chóng biến tất cả những thành phần của Đảng cộng sản Việt Nam thành một đẳng cấp ưu tiên. Sự kìm kẹp và tiêu diệt mọi tư tưởng độc lập của giới trí thức đã tạo ra một xã hội cúi đầu. Chút lý tưởng cộng sản họ không còn vì thực tại đã cho thấy lý thuyết của Marx chỉ là ảo tưởng. Khi một đám người không còn lý tưởng và nắm quyền lực tuyệt đối trong tay, chúng nhanh chóng tha hoá và biến thành tội phạm. Hiện nay bộ máy của chế độ cộng sản Việt Nam gồm hầu như toàn bộ là những kẻ vô đạo đức, tham nhũng cả về vật chất lẫn quyền lực. Sự lưu manh hoá của họ lớn dần theo thời gian và gây ra những bức xúc ngày một lớn trong xã hội. Mọi chủ trương, mọi định hướng, mọi chính sách phát triển quốc gia đều chỉ đẹp trên khẩu hiệu và bị bộ máy tham nhũng bóp méo thành những thứ đem lại lợi ích cá nhân. Các khoản đầu tư công, các chính sách phát triển… hầu như mọi thứ đều trở thành nguồn tham nhũng của bộ máy công quyền. Bộ máy ấy khiến hiệu suất vận hành của nhà nước càng ngày càng giảm, càng ngày càng tệ hại, càng ngày càng khiến những nguồn lực của quốc gia bị teo tóp. Những cơ hội phát triển nối nhau bị bỏ lỡ. Tất cả họ đều nhúng chàm, tất cả họ đều là tội phạm. Mức độ thì ngày một tệ hại hơn theo thời gian cho đến khi nào quyền lực độc tài của họ bị tước bỏ. Tôi muốn dành đôi lời để nói với những đảng viên cộng sản còn có lương tâm: Liệu có ai trong các vị dám đặt tay lên ngực và thề với lương tâm của mình, với tương lai con cháu mình, rằng các vị đang sống bằng nguồn thu nhập sạch, chứ không phải là nguồn tiền phi pháp. Có lẽ cũng có những người cộng sản, những công chức cấp thấp bị gạt bên lề guồng máy ăn chia và họ phải bươn trải sống bằng những sinh kế khác có từ sức lao động của họ. Tuy nhiên số đó nếu không muốn nói là ít thì sẽ là rất ít.

Sự tồn tại của chế độ độc tài tham nhũng ở Việt Nam đang là thứ tạo ra hầu hết bất công và làm băng hoại đạo đức xã hội. Thế hệ trẻ giờ đây lớn lên không còn có niềm tin, khi họ chứng kiến những kẻ nắm vị trí cao trong xã hội lại là những kẻ vô đạo đức nhất, giả dối nhất. Chưa bao giờ đất nước mất phương hướng và mất niềm tin như hiện nay. Sự tham nhũng và bộ máy trì trệ đang tàn phá hầu hết nguồn lực và cơ hội phát triển quốc gia. Bộ máy tham nhũng và vô đạo đức hiện nay không những cản trở xã hội đi lên, mà nó còn tiếp tay cho cái xấu và gây ra tàn phá. Thảm họa Fomosa, có thể nói bản chất là sự cấu kết giữa đám quan chức tham nhũng với những nhà tư bản bất lương. Ở những quốc gia mà thể chế minh bạch và phục vụ người dân, chắc chắn sẽ không có cơ hội cho những kế hoạch đầu tư tàn phá quốc gia, và nếu có, nó cũng sẽ bị chặn lại nhanh chóng và thủ phạm sẽ phải chịu sự trừng phạt nặng nề. Tôi rất muốn hỏi ông Nguyễn Phú Trọng đã nghĩ gì khi đến thăm Formosa giữa lúc toàn bộ biển miền Trung bị hủy diệt, và ông ta đã nghĩ gì khi sau đó ít tháng Formosa chịu khoản phạt 500 tr USD, một số tiền quá nhỏ so với những hủy diệt lâu dài mà họ gây ra đối với toàn bộ môi trường biển Việt Nam. Đây chỉ là một câu hỏi nhỏ và tôi biết chắc nó sẽ không bao giờ được trả lời.

Cuộc cách mạng Internet hiện nay đã khiến vòng kiểm tỏa của Đảng cộng sản về mặt thông tin hoàn toàn thất bại. Họ đã cố gắng hạn chế và chặn lại mạng xã hội nhưng thất bại. Trong những nỗ lực tuyệt vọng, họ thậm chí đã dùng tới giải pháp hạn chế băng thông giao lưu quốc tế khi có những sự kiện nhạy cảm diễn ra. Thuật ngữ “Cá mập cắn cáp viễn thông quốc tế” là một thực tế được sáng tạo ra bởi cơ quan kiểm duyệt tư tưởng của Đảng. Chế độ hiện nay không thể chặn được việc giao lưu thương mại, đầu tư, văn hoá của Việt Nam với phần còn lại của thế giới. Họ cũng không thể chặn lại sự giao lưu về tư tưởng và khao khát ngày một lớn về tự do, về quyền con người và về quyền công bằng giữa người với người trong việc có cơ hội giống nhau để vươn lên. Tôi rất buồn cười khi ông Nguyễn Xuân Phúc khuyến khích những người trẻ Việt Nam khởi nghiệp, ông ta nói đến Google, đến Facebook .. trong khi những điều đó được tạo nên trên nền tảng của tự do ngôn luận, thứ mà chế độ ông ta phục vụ luôn tìm cách kiểm duyệt và bóp chết. Tôi không rõ Zukerberg sẽ làm được cái gì nếu Mỹ là một nước kiểm soát về tự do ngôn luận, chắc chắn là facebook sẽ bị bóp chết ngay từ những dòng code đầu tiên.

Những người cộng sản hiện nay hiểu rất rõ họ là ai và thực tại thế nào. Vì thế từ nhiều năm nay những khẩu hiệu minh bạch mà họ hô hào hàng năm đều chỉ là những thứ sáo rỗng và loè bịp. Họ kê khai tài sản nhưng chỉ kê cho riêng họ xem, cũng chỉ có trời mới biết lũ tội phạm ấy kê gì và dấu của cải của chúng ở đâu. Họ hô hào chống tham nhũng chỉ để cho có, vì toàn bộ họ đều nhúng chàm. Thỉnh thoảng có một kẻ kém may mắn bị loại bỏ giữa các màn đấu đá phe cách và bị lôi ra làm thịt nhằm loè bịp người dân. Gần đây tôi có đọc một phát ngôn báo chí của Bộ Tài Nguyên, theo đó bộ này 10 năm qua không có tham nhũng, trong khi bất cứ ai cũng biết rõ một trong những cái ổ tham nhũng nhức nhối nhất chính là các cơ quan công quyền quản lý đất đai. Sự vô đạo đức và gian trá đã đạt đến đỉnh cao với những kẻ cộng sản độc tài hiện tại.

Nguồn lực của đất nước đang bị đánh cắp, cơ hội phát triển của đất nước đang bị tiêu diệt, và chủ quyền của đất nước thì đang ngày càng nguy ngập, vì với một bộ máy cai trị dễ dàng mua được bằng tiền, chúng cũng dễ dàng bán rẻ lợi ích quốc gia.

Tất cả những bất cập trên đều sẽ là những thứ khiến chế độ cộng sản hiện nay rồi sẽ phải chấm dứt. Trong nhiều năm qua, đảng cộng sản tuyên truyền về công lao của họ trong phát triển kinh tế quốc gia. Họ lờ đi thực tế là tài nguyên đất nước, môi trường sống vốn là những của cải cần được sử dụng dè xẻn và để lại cho đời sau thì nay đã bị họ đốt hầu hết cho hiện tại, mà phần lớn trong số đó đã rơi vào túi những tay tham nhũng. Và số nợ mà chế độ này đã vay thì đã vượt quá khả năng cân bằng của họ. Tất nhiên chế độ này khi kết thúc sẽ không trả nợ, người trả chính là người dân Việt Nam. Và tình trạng nợ công của Việt Nam đến nay đã cực kỳ nguy ngập. Từ năm 2016 trở về trước, người ta nói về số liệu nợ công đã vượt ngưỡng trần tính trên tỷ lệ GDP và năng lực cân đối dòng tiền của ngân sách. Từ lúc ông Nguyễn Xuân Phúc nắm quyền cho đến khoảng tháng 9/2016, chính phủ của ông ta đã vay nợ ròng thêm trên dưới 8 tỷ USD. Cái gọi là giới hạn hay trần an toàn giờ là thứ không còn ai nhắc tới. Trong vòng 5 năm tới, khả năng rất cao Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ quốc gia, khi chính phủ không thể trả nổi các khoản nợ đáo hạn. Tình trạng của Venezuela sẽ là viễn cảnh của Việt Nam.

Tuy nhiên chế độ hiện nay có thể trì hoãn cái chết bằng cách dựa dẫm vào nguồn tiền từ Trung Quốc. Và chẳng có bữa trưa nào miễn phí trên đời, đi kèm với đó sẽ là những cuộc mặc cả đen tối mà chủ quyền đất nước bị bán rẻ. Tất nhiên, khi sự thật lộ ra thì đất nước này sẽ chìm vào một biển máu mà sự phẫn nộ của người dân sẽ tàn phá tất cả. Và trong tình huống nội loạn diễn ra, đất nước này sẽ bị kéo lùi lịch sử trên dưới 20 năm.

Tôi muốn tránh cái viễn cảnh bi đát ấy và bất cứ người Việt Nam nào cũng đều muốn tránh, tôi tin, bao gồm cả những người cộng sản. Đơn giản là bất cứ ai cũng sợ chết, đặc biệt là những người giàu, trong khi đó các hậu duệ cộng sản và gia đình họ thì đã quá giàu. Vì thế tôi kỳ vọng rằng những cuộc đối thoại sẽ đến để tránh một kết cục bi đát cho tất cả. Chế độ rồi sẽ đi đến điểm kết, nhưng đó có thể là một điểm kết đau đớn hoặc một sự chuyển biến sang văn minh trong hoà bình.

Người Myanmar đã làm được điều đó, khi chính phủ độc tài của tổng thống Theinsein đứng về phe dân tộc. Họ cũng đã từng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội trong trên dưới 25 năm (1963 đến những năm 1980), họ cũng là những kẻ độc tài bị thế giới cô lập và lệ thuộc nặng nề vào trung quốc. Họ cũng có hơn 1000 km đường biên giới với Trung Quốc và có những phe nhóm lý khai gốc Hoa đang cầm súng chống lại chính quyền. Nhưng với con đường hoà giải và hợp tác, hiện nay họ đã đi trên đúng lộ trình để văn minh hoá đất nước. Con đường của Myanmar không dễ đi, nhưng họ đã tìm được lối thoát khỏi màn đêm đen tối.

Tôi muốn nói rằng, đó là một tấm gương cho chế độ cộng sản Việt Nam. Họ có thể thay đổi để tiếp tục tồn tại như một lực lượng chính trị giữ vai trò quan trọng trong một tương lai không hề ngắn. Họ có thể cải cách để giữ lại quyền tồn tại của mình, và điều quan trọng nhất là điều đó sẽ mở ra cánh cửa để Việt nam đi theo đúng lộ trình văn minh hoá quốc gia.

Tất nhiên những cải cách không phải có thể đến ngay một sơms một chiều. Ngay từ lúc ngày, chế độ Việt Nam có thể tiến hành những bước đi đầu tiên:

1. Nới lỏng kiểm duyệt báo chí và mạng xã hội. Đó là cách tốt nhất để góp phần giảm tham nhũng và minh bạch quốc gia. Nó cũng là bước đi đầu tiên để cải thiện hình ảnh của chế độ trước mắt công chúng. Nới lỏng kiểm duyệt không đồng nghĩa với việc những lời chỉ trích chính phủ sẽ tăng lên, trái lại, xã hội sẽ ghi nhận và bước đầu ủng hộ khi chế độ đi trên đường đúng.

2. Sa thải và tái bố trí việc làm cho ít nhất 30% người hưởng lương ngân sách, chỉ có bằng cách đó mới đảm bảo được việc cân đối giữa nguồn thu, nguồn trả nợ và các khoản đầu tư công cần thiết phục vụ phát triển đất nước. Tăng thu nhập cho toàn bộ đội ngũ công chức còn phục vụ, đảm bảo mức thu nhập của khu vực công về mặt chính thức là ngang bằng hoặc tương ứng với 80% thu nhập của khu vực tư. Đây là cách duy nhất để giúp chặn làn sóng ăn cắp và tham nhũng bắt buộc của những công chức có thang bậc đãi ngộ thấp hiện nay.

3. Ban hành một đạo luật chống tham nhũng mới, theo đó ấn định một sắc lệnh ân xá cho tất cả các hành vi tham nhũng phát sinh trong quá khứ, đồng thời đề ra những mức án cực nặng cho các vụ việc tham nhũng mới phát sinh sau thời hạn ân xá.

4. Thành lập một cơ quan tư pháp mới, một cơ quan điều tra mới hoàn toàn tách biệt với tất cả những cơ quan tư pháp và điều tra hiện nay. Chọn lựa những người có đạo đức và lý tưởng phụng sự quốc gia vào những cơ quan này và cấp cho họ chế độ đãi ngộ đặc biệt. Những cơ quan này được trao quyền điều tra, truy tố và xét xử tất cả các vụ việc tham nhũng mới phát sinh sau thời hạn ân xá được ấn định trong luật chống tham nhũng mới.

5. Bước đầu tách biệt toàn bộ hoạt động của các cơ quan tư pháp khỏi bộ máy hành pháp.

6. Giải tán Mặt trận tổ quốc hiện tại, thành lập một mặt trận toàn dân mới theo đó các đại diện được lựa chọn thông qua bầu cử một cách công khai, minh bạch. Các đại biểu này sẽ cùng thành lập một hội đồng soạn thảo hiến pháp mới. Cần đề ra một lộ trình thay đổi hiến pháp, ấn định thời điểm chấp nhận việc thành lập tự do chính đảng (có thể là một lộ trình 5 năm). Nội dung cơ bản nhất của hiến pháp mới cần có những nhân tố căn bản của một xã hội văn minh, trong đó yếu tố nền tảng phải được xây dựng xoay quanh quyền lập chính đảng và bầu cử tự do. Để tránh các xung đột với chế độ hiện tại, có thể học theo đúng mô hình Myanmar đang thực hiện: Chế độ cũ nắm quyền chỉ định 25% số ghế nghị viện không cần bầu cử, và nắm quyền phủ quyết hiến pháp. Đây là một sự cải cách nửa vời, nhưng nó là cách tốt nhất để bắc một cái cầu giữa hiện tại với tương lai, cho đến khi đất nước đủ văn minh để có một bản hiến pháp thực sự tiến bộ.

7. Trên tất cả, cần thực sự cầu thị, cần thực sự thiện chí vì đó là cách duy nhất giúp đất nước tránh khỏi vực thẳm hoang tàn của bạo loạn và chiến tranh.

Sẽ chỉ có hai con đường với chế độ cộng sản hiện nay: Hoặc tiếp tục cố níu kéo quyền lực, vay nợ mọi thứ, bán rẻ mọi thứ cho đến ngày tàn dìm đất nước và chính chế độ này vào lò lửa chiến tranh, hoặc bắt đầu thay đổi, để tạo cơ sở cho đất nước này hướng tới tương lai trong đó bao gồm tương lai của chính đảng cộng sản.

Vài lời cuối cùng: Đây là những ý tưởng viết vội của tôi trong vài ngày nghỉ, nó được gõ và post trực tiếp ngay trên trình duyệt. Tôi biết nó sẽ vẫn có những khiếm khuyết và những hạn chế. Tôi mong rằng nó sẽ được hoàn thiện hơn qua sự chia sẻ và góp ý của tất cả mọi người. Chúng ta cần sự chia sẻ, chúng ra cần sự thiện chí và chúng ta cần sự khách quan. Bởi đó là những thứ đất nước này đang rất thiếu.

Tôi muốn minh định rõ ràng rằng những phân tích của tôi về thực trạng xã hội là những gì đang diễn ra và rồi sẽ diễn ra. Tôi trông đợi vào sự thay đổi của chế độ nhưng sẽ không đặt cược vào đó. Mọi sự thay đổi tích cực ở đất nước này phụ thuộc vào chính mỗi người dân Việt Nam. Chỉ khi mỗi chúng ta biết rõ ràng đâu là con đường phải đi và sẵn sàng phấn đấu vì nó một cách văn minh, hoà bình nhưng kiên quyết thì đất nước mới có hy vọng. Cũng chỉ khi đó cái thể chế tham nhũng hóa này mới chịu áp lực buộc phải thay đổi, không phải vì đất nước, mà vì chính họ. Có hàng nghìn và hàng chục nghìn người đã góp phần mình trong chuỗi sự kiện Formosa. Có hàng triệu người đã tham gia phong trào “Một lá phiếu, một cái tên”. Con đường này không dễ đi, nhưng tôi tin đất nước này còn có hy vọng.

Câu hỏi chúng ta cần phải làm gì không dễ trả lời, vì mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, các bạn có thể tham khảo lại một bài viết cũ: “Vì sự tiến bộ xã hội” https://web.facebook.com/Langlanhtu/posts/10204824521012889?_rdr

Tôi dự kiến sẽ viết một loạt phân tích về các phong trào đầu tranh cho tiến bộ xã hội ở Việt Nam kể từ năm 1975 trở lại đây, cả trong nước lẫn hải ngoại, và trình bày những kiến giải của mình về những giải pháp mà những công dân tiến bộ có thể làm để thúc đẩy lộ trình văn minh ở Việt Nam. Tuy nhiên, có lẽ dự án này sẽ được gác lại cho đến khi tôi hệ thống được tư duy về vấn đề này và tìm thấy thời gian rảnh.

Trân trọng.

 

NGOẠI GIAO PHÁP VÀ NHỮNG CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ CỦA VN

Tiêu chuẩn

Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp kết hợp với Tòa thị chính Paris tổ chức triển lãm "Nghệ thuật hòa bình: Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp"

Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp kết hợp với Tòa thị chính Paris tổ chức triển lãm “Nghệ thuật hòa bình: Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp”

Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp, kết hợp với Tòa thị chính Paris đang cho ra mắt công chúng tại Petit Palais (Paris) triển lãm «Nghệ thuật hòa bình: Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp».

Đây là lần đầu tiên những kỷ vật hiếm hoi được giữ gìn từ Thế kỷ 4, những tranh, tượng của những danh họa, nghệ sĩ, văn bản, nghi chép nói về con đường gieo mầm, gặt hái hòa bình từ những xung đột, chiến tranh của ngoại giao Pháp ra mắt công chúng.

Trong số những tài liệu quý, tôi thấy có bản sao ‘Công chứng’ với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502.

Ngoài ra là ‘Văn bản đầu hàng’ Đế chế Đức ký kết chấm dứt chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1917, hoặc ‘Biên bản trao đổi’ giữa Hitler và đại sứ Pháp tại Berlin trước ngày nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Người ta cũng có thể thấy cẩm nang viết và tra cứu mật mã những văn bản ngoại giao, tài liệu mật giai đoạn Hồng y Richelieu, cùng thời với chàng l’Artagnan trong tiểu thuyết ‘Ba chàng lính Ngự lâm’ của Alexandre Dumas.

Bản sao 'Công chứng' với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502

Bản sao ‘Công chứng’ với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502

Một tài liệu độc đáo khác là bức thư viết trên vàng lá của vua Xiêm (Thái Lan) Mongkut-Rama IV gửi Hoàng đế Napoléon III ngày 17/03/18615 (Ảnh 5).

Đại sứ Xiêm đã trình quốc thư độc đáo đó kèm nhiều tặng phẩm quý tận tay Napoléon III và hoàng hậu Eugénie tại lâu đài Fontainebleau ngày 27/06/1861.

Với Việt Nam, có hai văn bản nên ngược dòng lịch sử, để ghi nhận và suy ngẫm.

Văn bản thứ nhất là ‘Hiệp định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954’, nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia).

Văn bản thứ hai là ‘Hiệp định Hoàng Phố 1844’.

Ai thắng ai ở Geneve 1954?

Văn bản Hiệp Định Geneve trưng bày bản gốc tiếng Pháp và tiếng Việt, các trang liên kết với nhau bằng 2 dải dây lụa xanh trắng, trang bìa gắn dấu xi chữ ký Cộng Hòa Pháp và quốc huy của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Bản tiếng Việt đựng trong bìa carton mầu vàng nhạt, mầu những bức tường cổ Hà Nội. Bản tiếng Pháp có bìa mầu hồng.

Đằng sau những cặp bìa chứa chấp những mưu mô đổi chác, những giọt nước mắt, nụ cười và bi kịch.

Người anh cả Nga đã đi đêm, khi Tướng Giáp còn chưa hất tung những chàng lính dù Pháp như nướng những chiếc bánh crêpes bằng những khẩu đại bác của mình.

Bản gốc 'Hiệp Định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954' nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương được trưng bày tại triển lãm

Bản gốc ‘Hiệp định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954’ nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương được trưng bày tại triển lãm ở Paris

Tháng 1/1954 tại Berlin, trong những bàn cãi về thống nhất nước Đức, Ngoại trưởng Nga Vyacheslav Molotov (1890-1986) ngỏ ý giúp Pháp thu xếp đình chiến tại Đông Dương, đổi lại việc Pháp rút ra khỏi khối ‘Cộng đồng phòng thủ chung châu Âu’.

Lẽ ra ủng hộ phái đoàn Phạm Văn Đồng tại Geneve, người anh thứ hai Trung Hoa lại ‘thân thiết, gần gũi’ với Pháp, kẻ thất bại trên chiến trường đang cháy lòng tìm kiếm một lối thoát khả thi.

Đọc hồi ức của các tướng lĩnh và sử gia Pháp giai đoạn này, người Việt sẽ đánh giá lại món ăn cay sực gia vị ‘nghệ thuật ngoại giao Paris’ đã dọn cho họ ra sao.

Giới quân sự Pháp rền rĩ trước canh bạc trắng tay, rủa những nhà ngoại giao chết nghẹn đi không nghĩ rằng phái đoàn Georges Bidault đến Thụy Sỹ đã cứu thoái cho đạo quân viễn chinh mất tinh thần chiến đấu, tan hàng còn hiệu quả hơn những chiến dịch giải cứu Atlante, Arréthus hay Axelle.

Các nhà ngoại giao Pháp lọc lõi, hồng hào, tươi tắn như thể họ còn những con bài sáng giá, mà thật ra đã bị dồn đến chân tường.

Ngày 19/06/1954 lên nhậm chức, Thủ tướng Pierre Mendes France đã hứa trước quốc dân sẽ tái lập hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng, muộn nhất là vào ngày 20/07.

Song kịch hạn chót của thời điểm, các cuộc thương lượng vẫn dang dở. Để cho chính phủ Pháp không bị đổ vì hứa suông cũng như tôn trọng hình thức công pháp quốc tế, tại phòng đàm phán ‘Palais des Nations’ ở Geneve, hai chiếc kim đồng hồ giữ nguyên ở số 12.

Sự thật là sang 2 giờ ngày 21/7/1954, Hiệp định đình chiến về Việt Nam và Lào mới được đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký. Hiệp định đình chiến ở Campuchia được ký vào cuối buổi sáng 21/07. «Tuyên bố cuối cùng» mãi đến chiều ngày 21/07 mới được hội nghị thông qua.

Tháng 10/1979, nghĩa là sau một phần tư thế kỷ, Hà Nội công bố Bạch thư «Sự thật về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc 30 năm qua».

Phải đợi những chiếc xe tăng Bát Nhất chọc thủng phòng tuyến Kỳ Lừa và biển người của Giải phóng quân Trung Hoa tràn sang giết chóc, những dòng chữ như thế này mới được viết:

«Pháp đến Geneve nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên để cứu đội quân viễn chinh, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp với lập trường của Pháp.»

Các nhà đàm phán Việt Nam thiếu cái hoài nghi lịch lãm nhưng lại lành mạnh đủ mức với những gì những nhà làm chính trị phải có để nhìn ra những cạm bẫy hai khối dành cho họ. Họ dèm pha và khinh miệt đối phương. Căn bệnh tự phụ, răn dạy đạo đức luôn luôn cho rằng mình đúng, những suy nghĩ của họ là bất di, bất dịch.

Người ta chế nhạo giọt nước mắt của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ của Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Việt Nam Cộng hòa sau này, người đã không chịu đặt bút ký vào văn bản chia đôi Việt Nam mà dòng sông có tên Hiền Lương như nụ cười nhạo báng, trớ trêu, chẳng ‘hiền’ mà cũng chẳng ‘lương’ trong suốt 30 năm.

Không ai nghĩ rằng đó là những giọt nước mắt đầu tiên nhỏ xuống sinh mạng 5 triệu người Việt Nam và 58.000 quân nhân Mỹ sẽ chết.

Song đó chưa phải là giá đắt nhất.

Đến bây giờ người Việt đối thoại với cựu thù Pháp, Mỹ dễ hơn đối thoại giữa người Việt có quá khứ khác nhau. Họ hỏi nhau đến từ đâu, Nam hay Bắc trong câu hỏi đầu tiên.

Hiệp định Hoàng Phố Pháp-Trung 1844 và vị thế Việt Nam

Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàng

Ảnh chụp ‘Hiệp Định Hoàng Phố 1844’ trưng bày tại bảo tàng

Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàng

Ảnh chụp ‘Hiệp Định Hoàng Phố 1844’ trưng bày tại bảo tàng

Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 24/10/1844 giữa Hoàng đế Pháp Louis Phillippe và Hoàng đế nhà Thanh được gọi là ‘Hiệp ước hữu nghị và thương mại’ trong nguyên bản, thực chất là một trong những dạng hiệp ước bất bình đẳng. Nhà Thanh phải nhượng quyền buôn bán tại năm hải cảng, chấp nhận hiện diện của Pháp tại Trung Hoa, mở đầu tiến trình thực dân hóa của Pháp tại châu Á.

Ngay từ năm 1842, Trung Quốc đã bị Anh, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Bồ Đào Nha chẹt cổ bằng hàng loạt các hiệp ước lép vế như Hiệp ước Nam Kinh (1842), Hố Môn (1843), Vọng Hạ, Thiên Tân (1844), Yên Đài (1876), Mã Quan (1895)…

Tiến thêm một bước nữa, sau Hiệp ước Hoàng Phố đúng 40 năm, Paris ký với nhà Nguyễn Hòa ước Pháp-Việt Giáp Thân, 1884, còn gọi Hòa ước Patenôtre, đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam.

Nhìn những văn bản được trưng bầy tôi có dòng suy nghĩ.

Nước Pháp đã thở phào nhẹ nhõm khi thôn tính nền độc lập của Việt Nam, nước được họ coi là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á, một thế lực lớn ở Châu Á sau chiến thắng của Nguyễn Ánh trước nhà Tây Sơn.

Trận thủy chiến thư hùng Thị Nại hồi 1801, quân chúa Nguyễn đánh tan hạm đội Tây Sơn gồm 1.800 chiến thuyền, 600 đại bác và 20.000 binh sĩ của Đại tư đồ Vũ Văn Dũng, đã tạo uy danh cho Vua Gia Long.

Các cường quốc phương Tây chủ yếu sử dụng ‘chính sách pháo hạm’ bắt nạt Trung Quốc, Nhật Bản phải dè chừng. ‘Qua sông phải lụy đò’, sợ cũng phải.

Có phải vì vậy mà Việt Nam bị bắt nạt chậm hơn Trung Hoa đến gần nửa thế kỷ?

Uy dũng Tây Sơn: Trên chiến trường và trong cuộc đấu ngoại giao

Wolfgang Kaehler/LightRocket via Getty Images

“Những trận thắng oanh liệt của Vua Quang Trung khiến nhà Thanh phải e sợ, và khiến nước Việt có tư thế bình đẳng với Trung Hoa”

Năm Kỷ Dậu, Quang Trung đánh tan quân Thanh cũng là năm Cách mạng Pháp 1789.

Nước Pháp chắc cũng ngần ngại nếu sau khi đặt chế độ bảo hộ lên đất Việt lại phải cử một phái đoàn ngoại giao ‘kiểu Nguyễn Huệ’ sang Trung Quốc.

Họ cũng sẽ run, sẽ sợ ‘bút sa không phải gà chết mà nước mất’ nếu phải đề cử võ tướng Vũ Văn Dũng giỏi múa kiếm, phá thành hơn cong lưỡi làm thơ, bút đàm làm trưởng đoàn soán chỗ quan văn Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ sang nghị hòa với Càn Long tại Bắc Kinh 18/1/1789.

Họ cũng sẽ thấy bức thư gửi ‘Thiên triều’ ngang ngạnh quá, đi giảng hòa mà ngạo nghễ ngang tàng, như lên lớp cho Trung Hoa về nghệ thuật chiến tranh «quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu… ».

Lần thứ hai phái đoàn Phạm Văn Trị đi Tầu 1/1790 vẫn có kẻ ‘Vai năm thước rộng, thân mười thước cao’, ‘Chinh Nam Đại tướng quân’ Ngô Văn Sở, dũng tướng được Nguyễn Huệ gọi là ‘nanh vuốt của ta’, người đã chém đầu Đề đốc Hứa Thế Hanh và Tả dực Thượng Duy Thăng, bức tử Sầm Nghi Đống, sang đòi bỏ lệ cống người vàng cúng cái đầu Liễu Thăng rơi ở ải Nam Quan.

Lần thứ ba đi sứ cũng vẫn là võ tướng Vũ Văn Dũng với nhiệm vụ rõ ràng: «Sắc truyền cho Hải Dương Chiêu viễn Đô đốc tướng quân Dực vận công thần Vũ quốc công được gia phong chức chánh sứ đi sứ nước Thanh, được toàn quyền trong việc đối đáp tâu xin hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc tức.”

“Phải thận trọng đấy! Hình thế trong chuyến dụng binh đều ở chuyến đi này. Ngày khác làm tiên phong (đánh nước Thanh) chính là khanh đấy. Kính thay sắc này.»

Triều đại Việt nào làm ngoại giao tế nhị, tinh tế như thế ?

Những người chơi đồ cổ Hà Nội rất vui khi kiếm được một món đồ nào đó của triều đại này. Một triều đại được họ cho là ‘nhân văn, nhân ái’. Triều đại không muốn nghe nhắc đến tên một dòng sông đất Việt, không muốn nhớ đến võ công một nước bé tý đã thắng đội quân Mông Cổ mà chính Trung Hoa đã phải quỳ gối hồi Thế kỷ 13.

Nước Pháp kỷ niệm 200 năm Cách mạng 1789 đã từ chối lời ngỏ ý của tướng Giáp được tham dự ngày hội trên Quảng trường Concorde. Đất nước ‘ánh sáng, văn minh’ đi gần sang Thế kỷ 21 mà còn nặng lòng, ấm ức với người thắng họ ở Điện Biên Phủ.

Càn Long ‘lú’ không ngửi thấy mùi thuốc súng còn vương trên chiến bào của Võ Văn Dũng, Ngô Văn Sở? Quan binh chết nghẽn dòng Nhị Hà ai cũng sướng ‘làm quỷ nước Nam, hơn làm vua đất Bắc’, chẳng kẻ nào lê gối về khóc với Bắc Kinh?

Định mệnh cho thêm Quang Trung một vài năm, đất Việt sẽ có một công chúa nhà Thanh đôi mày xanh chiêm bao về làm dâu với hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây như nhượng địa ‘xin đểu’ kiểu Hong Kong, Ma Cao?

Và lúc đó, Việt Nam chứ không phải là Pháp sẽ ký tại Quảng Tây Hiệp ước Hoàng Phố, trong tiếng Anh gọi là Whampoa này. Có thể còn trước hơn rất nhiều?

Mong ước của Quang Trung có 10 năm yên ổn phát triển thì “mình sợ gì nó (chỉ Trung Hoa)” không có.

Việt Nam chưa từng có một cơ hội như Pháp ký với Trung Hoa một hiệp định chặn họng tương tự.

Sau chiến thắng khẳng định nền độc lập 1789, nước Việt có tư thế bình đẳng với Trung Hoa. Song lợi thế này không được khai thác và tiếp nối sau khi Quang Trung mất.

Việt Nam đã thiếu tự tin để cuối cùng phải nhận một bản hiệp ước mất chủ quyền như Hòa ước Patenôtre?

Người Pháp khi đàm phán về ba tỉnh miền Nam nhủ thầm “nếu đòi được chiến phí vài triệu frances thì quá tốt rồi”, thì họ lại được cả ba vùng đất.

Việt Nam là một trong ba trường hợp hiếm hoi như Nga, Hoa Kỳ từ Thế kỷ 17 mà sự mở rộng bờ cõi không bị lịch sử trừng trị và lụn bại.

Nước Pháp có trọn vẹn Waterloo, Điện Biên Phủ, song vẫn giữ vị thế là một trong năm cường quốc. Nên học gì ở họ để ‘dân giầu, nước mạnh’?

Napoleon nói: «Những thiên tài như những mảnh thiên thạch chói sáng dẫn dắt lịch sử».

Đất Việt thiếu những thiên thạch để mở mặt, như họ đã để tuột các cơ hội chăng?

Có quá nhiều giả định, nhiều ‘NẾU’ trong bước đường khẳng định một quốc gia hùng cường.

Chữ ‘NẾU’ ấy chỉ như đám mây ngũ sắc, chiếc cầu vồng bắc qua nền trời sau cơn mưa. Những tuấn kiệt của lịch sử hay kẻ nghèo hèn đều không bước chân lên được chiếc cầu hư ảo để sang bờ bên kia của Định Mệnh, chỉ còn vạt nắng trôi theo chân người của tiếc nuối, cam chịu.

Một lúc nào đó chúng ta sẽ có cơ hội được xem những văn bản “Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam”, được ‘chiêm ngưỡng’ Hiệp định Thành Đô ở Hà Nội chăng, như hôm nay ở Paris?

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả hiện sống tại Paris, Pháp.

TIN ĐIỆN ẢNH

Tiêu chuẩn

Nữ diễn viên phim Amour và người tạo đũa thần trong Harry Potter qua đời

28/01/2017 21:53 GMT+TTO – Ngày 28-1-2017, ở tuổi 89, diễn viên gạo cội người Pháp Emmanuelle Riva đã qua đời, sau thời gian chống chọi bệnh ung thư, để lại một sự nghiệp đồ sộ. John Hurt –  ông Ollivanders trong Harry Potter cũng qua đời ở tuổi 77.

Nữ diễn viên phim Amour và người tạo đũa thần trong Harry Potter qua đời

Bà Emmanuelle Riva trong phim Amour – Ảnh: Telegraph

Emmanuel Riva được coi là ngôi sao hàng đầu của điện ảnh Pháp với sức làm việc liên tục từ thập niên 50 của thế kỷ trước. Trong thời gian cuối đời, dù phải chống chọi với căn bệnh ung thư nhưng bà Riva vẫn đến Iceland thực hiện bộ phim Alma trong mùa hè vừa qua. Hiện phim đang trong giai đoạn hậu kỳ và sẽ ra mắt trong năm 2017.

Emmanuel Riva từng làm việc với hầu hết những đạo diễn nổi tiếng của Pháp, những người để lại dấu ấn trong nền điện ảnh nước này. Ngoài ra, bà còn có mặt trong các phim của đạo diễn danh tiếng người Ba Lan, Krzysztof Kieslowski.

Vai một sát thủ tỉnh lẻ trong phim Therese Desqueyroux năm 1962 của đạo diễn Georges Franju đã đem lại cho bà giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venice. Tờ Telegraph cho biết trong điện ảnh, bà rất khắt khe với gu chọn phim rất khác lạ.

Với chọn lựa như vậy, sự nghiệp của bà Riva không quá nổi bật ở Hollywood và phải đến khi 85 tuổi, với vai diễn người vợ già bị tai biến sau cơn đột quỵ trong phim Amour của đạo diễn danh tiếng người Áo Michael Haneke, bà mới được Hollywood và cả thế giới biết đến.

Vai diễn này giúp bà Riva được hàng loạt đề cử, trong đó có đề cử Nữ diễn viên chính cho tượng vàng Oscar, trở thành người lớn tuổi nhất nhận được đề cử danh giá bậc nhất thế giới này.

Ngoài thành công trong phim Amour, Emmanuel Riva từng gây tiếng vang trên màn ảnh rộng, lúc 30 tuổi, lộng lẫy sắc đẹp trong phim Hiroshima mon Amour (Hiroshima tình yêu của tôi). Phim do nữ văn sĩ Marguerite Duras – tác giả tiểu thuyết Người tình – biên kịch và được đề cử một tượng vàng Oscar.

Nếu như có một sự nghiệp điện ảnh đồ sộ, thì đời tư của Emmanuel Riva khá lặng lẽ. Bà không kết hôn, không có con, sống hơn 54 năm tại duy nhất một căn hộ tầng 4 ở Paris và giữ kín thông tin bệnh tật đến tận lúc cuối đời.

Nữ diễn viên phim Amour và người tạo đũa thần trong Harry Potter qua đời

John Hurt (phải) vai ông Ollivanders trong phim Harry Potter – Ảnh: Popsugar

Người chế tạo đũa thần cho Harry Potter qua đời

Cùng ngày 28-1, nam diễn viên người Anh, Ngài John Hurt – từng thủ diễn vai ông Ollivanders chuyên làm đũa thần cho thế giới phù thủy trong các tập phim Harry Potter – cũng qua đời ở tuổi 77 vì bệnh ung thư.

Ông bị chẩn đoán ung thư tụy từ năm 2015 nhưng vẫn làm việc tới những ngày cuối đời.

Mới nhất, Ngài John Hurt có mặt trong bộ phim được đề cử Oscar 2017, tiểu sử Đệ nhất phu nhân Mỹ Jackie. Trước đó, Ngài John Hurt đã từng hai lần được đề cử Oscar diễn xuất trong phim Midnight Express (1978) và The Elephant Man (1980).

Trong sự nghiệp của mình, ông đã 3 lần thắng giải diễn xuất của Giải BAFTA (Anh) và vào năm 2012 được BAFTA trao giải Cống hiến điện ảnh.

THẢO NGUYÊN

TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP TẬP HỢP DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN

Tiêu chuẩn

Nguồn: Thông Luận

LTS: Trên 20 năm qua Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên vẫn luôn trung thành với ba giá trị nền tảng Dân chủ Đa Nguyên, Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc và Bất Bạo Động. Nhưng gần đây trong tổ chức đã có người khẳng định tuyên bố “Đa nguyên hay đối lập chỉ có ý nghĩa và cần thiết trên phạm vi quốc gia. Trong một tổ chức chỉ có nhất nguyên chứ không thể có đa nguyên”. Vì muốn bảo vệ ba giá trị cốt lõi của tổ chức, chúng tôi đã phải lấy quyết định không đồng hành với những ai ủng hộ lời tuyên bố trên. Chúng tôi xin gởi đến quý độc giả một tài liệu ghi lại theo thứ tự thời gian những bước đi của tổ chức trong nỗ lực tìm kiếm những giải pháp để đưa đất nước vào kỷ nguyên dân chủ đa nguyên, hòa nhịp với đà tiến của thế giới, mưu cầu hạnh phúc cho người Việt Nam. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên được hình thành do sự kết hợp của nhiều người và nhiều nhóm, đặc biệt là hai nhóm: Thông Luận – hậu thân nhóm thảo luận Cơ Sở Tư Tưởng – và Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu. Trong bài viết này chúng tôi sẽ trình bày những diễn tiến của tiến trình hình thành Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ lúc khởi đầu cho đến năm 2016.
I. Việc hình thành nhóm thảo luận về hướng đi cho Việt Nam đưa đến tài liệu Cơ Sở Tư Tưởng
Vào cuối năm 1982 tại Paris, một số những anh em – cùng chí hướng – đã họp với nhau để bàn về tình hình đất nước và có ý lập một nhóm thảo luận chính trị kiểu thinktank, chứ không có ý định lập đảng. Nhóm này đã họp vào tối thứ năm, hai tuần một lần, nên trong bài viết này chúng tôi tạm gọi là nhóm thảo luận Cơ Sở Tư Tưởng. Tất cả đều thấy rằng trước tình trạng bế tắc của đất nước, cần phải có đường hướng, nguyên tắc và chủ trương nhất định để hướng dẫn nhóm đi vào những cuộc thảo luận sâu rộng về mọi mặt của quốc gia như kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng, giáo dục v.v…

Không kể một vài tháng đầu tìm cách quy tụ người, có thể nói những ngưởi khởi xướng chính thức ngồi lại với nhau thảo luận về vấn đề Việt Nam gồm các ông: Nguyễn Gia Kiểng, Trần Thanh Hiệp, Dương Kích Nhưỡng, Nguyễn Trọng Kha, Nguyễn Văn Lộc, Vũ Tiến Vượng, Phạm Ngọc Lân và bà Quản Mỹ Lan. Ngoài ra, còn một số người khác, trong đó có hai anh em ông Chu Vũ Hoan và Chu Vũ Ca, nhưng chỉ vài ba tháng sau họ thấy không thích hợp với tinh thần thảo luận của nhóm nên đã rút lui.

Nhóm khởi xướng thảo luận như vậy trong gần 2 năm. Và ông Kiểng đã ghi chép lại những gì anh em đã bàn luận. Bản viết tay đó lại được nhóm mổ xẻ, sửa chữa, góp ý và cuối cùng ông Nguyễn Gia Kiểng đã đúc kết và chấp bút tài liệu này, mang tên là Cơ Sở Tư Tưởng.

Anh em trong nhóm đưa ra ba khái niệm chính về một nước Việt Nam, muốn được ổn định để phát triển, thoát khỏi nghèo đói và tụt hậu là:

1. Việt Nam sẽ là một nước với thể chế Dân Chủ Đa Nguyên, nơi tiếng nói của mọi cộng đồng dân tộc đều phải được lắng nghe;

2. Để tiến tới một nước Việt Nam Dân Chủ Đa Nguyên trước hết nhà nước Việt Nam phải xóa bỏ mọi yếu tố gây chia rẽ và thực tâm thi hành chính sách Hòa Giải để Hòa Hợp Dân Tộc hầu đưa đất nước tiến lên;

3. Để hướng tới 2 mục tiêu trên, chúng ta cần đấu tranh trong tinh thần bất bạo động vì máu người Việt Nam đã đổ nhiều rồi nên chúng ta không có quyền đòi hỏi người dân phải hy sinh tánh mạng nữa mà cần phải đấu tranh bằng chính trị, bằng tư tưởng.
II. Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu
Vào năm 1981, khi Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu sinh hoạt ở Strasbourg, một số thành viên trong nhóm đã đi thăm Quốc hội Âu Châu. Trong dịp này, ông Nguyễn Văn Thế đã thấy một tờ giấy giới thiệu (flyer) với tựa đề L’unité dans la différence (Đồng nhất trong sự khác biệt). Trong tờ giấy giới thiệu này, có nói về khái niệm Đa nguyên (Pluralisme).

Từ ý tưởng này, vào năm 1982, nhóm Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã thảo luận về tinh thần Đa Nguyên trong dân chủ trong kì sinh hoạt học tập ”Tìm một tư tưởng và hướng đi mới cho Lực Lượng” ở Lausanne – Thuỵ Sĩ. Đồng thời anh em nhóm Lực Lượng đã chấp nhận tinh thần đa nguyên trong dân chủ là nền tảng cơ sở của tổ chức. Từ đó, các thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã thảo luận về đề tài “Làm thế nào để áp dụng tính đa nguyên vào thực tế của cuộc sống và trong sinh hoạt dân chủ”. Trong nhiều kì sinh hoạt học tập sau đó, các thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã bàn về thuyết âm dương, phép biện chứng của Hegel và Karl Marx cũng như những diễn biến xảy ra trên thực tế của các nước dân chủ Tây và Bắc Âu và cuối cùng đã đi đến bốn kết luận cho việc áp dụng tính đa nguyên của dân chủ vào thực tế: một là tôn trọng và chấp nhận các khác biệt, dù có thể rất đối kháng nhau, cũng là chuyện bình thường của cuộc sống và là động lực làm cho xã hội phát triển; hai là vì lợi ích tập thể, trong đó có lợi ích cá nhân của mỗi người cho nên dù khác biệt thế nào đi nữa, chúng ta vẫn phải hợp tác với nhau để làm việc chung. Vì hợp tác chính là sức mạnh của xã hội dân chủ đa nguyên, giúp xã hội tồn tại và phát triển; ba là để có sự hợp tác giúp tập thể tồn tại và phát triển, chúng ta phải đối thoại và thảo luận để tìm ra những khác biệt của nhau với mong muốn có thể dung hoà và thoả hiệp; bốn là trong xã hội, theo dân chủ đa nguyên, luôn luôn có mâu thuẫn, vì vậy hoà giải là một bắt buộc để có thể hợp tác và làm việc chung với nhau.

Đồng thời trong kì sinh hoạt học tập này, Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu cũng chấp nhận phương pháp tranh đấu bất bạo động là phương pháp mà Lực Lượng sẽ áp dụng để tranh đấu thay đổi chế độ hiện nay. Có ba lí do để các thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu chấp nhận phương pháp này: một là vì nguyên tắc dân chủ không cho phép bạo động, hai là vì bạo lực chỉ làm cho đất nước thêm đổ vỡ và ba là bạo lực không thích hợp với chủ trương của Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu. Cũng trong kì họp học tập này, thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã đồng ý về một bản nhận định về lịch sử loài người với tựa đề “Lịch sử loài người là lịch sử của những giao ước xã hội thành văn và bất thành văn”.

Ban Chấp Hành Trung Ương và Ban Chấp hành các Phân bộ của Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu vào thời điểm năm 1982, gồm có các ông Nguyễn Trọng Kha, Phan Phúc Vinh, Đặng Minh Kỷ, Phạm Xuân Cảnh, Trần Văn Răn, Đinh Văn Ban, Nguyễn Văn Thế, Vũ Đình Thọ, Nguyễn Gia Thưởng, Nguyễn Xuân Thuấn, Nguyễn Thế Vũ, Nguyễn Phú Lộc, Đặng Vũ Chính, Võ Trung Trực, Nguyễn Văn Đang, Hồ Thành Hiệu và Trần Bá Thành.

III. Sự liên kết giữa nhóm thảo luận Cơ Sở Tư Tưởng và Nhóm Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu

Sợi dây liên kết giữa hai nhóm là ông Nguyễn Trọng Kha.

Ông Kha là thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu – trụ sở trung ương đặt tại Lausanne Thuỵ Sĩ – sinh sống ở Paris và cũng có chân trong nhóm thảo luận Cơ Sở Tư Tưởng tại Paris. Chính vì thế ông Nguyễn Trọng Kha đã làm trung gian mang những suy nghĩ, ý kiến thảo luận trong nhóm Lực Lượng qua nhóm Paris và ngược lại những ý kiến của anh em Paris cũng được ông Kha đóng góp lại trong những buổi thảo luận trong nhóm Lực Lượng.

Chính sự trùng hợp về tư duy của hai nhóm về vấn đề đất nước đã đưa đến sự hợp tác tự nhiên giữa hai tổ chức. Điều này là mấu chốt cho sự kết hợp tốt đẹp giữa hai nhóm sau này dù có những thành viên ở những quốc gia xa nhau. Sự kết hợp chưa chính thức lúc ban đầu giữa hai nhóm chính là tiền thân của tổ chức Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sau này.

Năm 1984, Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu tổ chức một buổi học tập phối hợp với trại hè dành cho gia đình thành viên Lực Lượng tại Fontenette, một làng nhỏ cách Paris hơn 300 cây số về phía Nam, để học tập về dân chủ đa nguyên và tiếp tục bàn về việc làm thế nào để áp dụng tính đa nguyên vào thực tế sinh hoạt dân chủ. Trong dịp này Lực Lượng đã mời ông Nguyễn Gia Kiểng thuộc nhóm thảo luận Cơ Sở Tư Tưởng đến tham dự. Lúc đó, ông Kiểng đã trình bày một chủ đề trong bản Cơ Sở Tư Tưởng bàn về bốn điều kiện cần có để cuộc cách mạng thành công. Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi. Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể. Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới. Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.

Khi Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản tại Hoà Lan tổ chức trại hè Hùng Vương năm 1987, Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã đề nghị Cộng đồng mời ông Nguyễn Gia Kiểng đến trình bày về dự án chính trị có tên Cơ Sở Tư Tưởng này.

IV. Việc hình thành nhóm Thông Luận và tờ báo Thông Luận
Sau khi có bản in Cơ Sở Tư Tưởng, một số người trong nhóm mới nghĩ đến việc phổ biến những tư tưởng này đến với quần chúng bên ngoài. Từ đó mới nẩy sinh ra ý kiến phải cần có một tờ báo!

Nói đến báo thì cho đến thời điểm đó mọi người chỉ biết báo dưới dạng báo ngày, báo tuần, báo tháng như ngày xưa ở Việt Nam hay sau này ở Mỹ. Ai cũng biết làm một tờ báo như vậy thì vô cùng tốn kém, trong khi mọi người trong nhóm dự định làm báo – mới qua Pháp tỵ nạn – không có tiền để thực hiện việc này!

Trong khi đó, tại Paris và vào thời gian đó, bà Quản Mỹ Lan thường nhận được một loại tài liệu của nhóm ông Raymond Barre, cựu Thủ Tướng Pháp. Đây là một loại “thư” 4 trang do nhóm ông R. Barre đưa ra để trình bày về đường lối hoạt động của nhóm mình. Việc này đã khiến bà Mỹ Lan suy nghĩ: Tại sao mình không làm báo dưới hình thức đó? Vì thế, Bà Mỹ Lan đã đưa ra ý kiến này và được anh em chấp thuận. Rồi mọi người trong nhóm góp tiền lại và quyết định ra một tờ báo với hình thức rất đơn giản nhưng có nội dung như các độc giả đã biết. Với số tiền đóng góp của nhóm lúc đó, những người làm báo quyết định phải ra được báo trong vòng ít nhất một năm dù có độc giả mua báo hay không. Tất cả những người trong nhóm đều đồng ý với nhau là tờ báo phải mang nội dung như sau đây:

1. Chỉ đăng những bài vở có tính cách chính trị, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Việt Nam. Không có các tiết mục văn nghệ, truyện ngắn, truyện dài hoặc thơ phú v.v…;

2. Không đăng quảng cáo, nói rõ hơn Thông Luận sẽ không sống bằng quảng cáo. Chính vì thế, sau này khi tờ Thông Luận “nổi tiếng”, nhiều nơi muốn đăng quảng cáo trên Thông Luận nhưng theo nguyên tắc đã đề ra từ đầu, nhóm làm báo đã phải từ chối;

3. Sẽ là tờ báo bán, không phải báo biếu hay cho không;

4. Sẽ không đăng lại những bài vở đã đăng trên những báo khác;

5. Với số tiền đóng góp được, anh em làm báo tiên liệu sẽ ra báo được ít nhất là một năm. Sau đó, nếu không có độc giả, không thu được  tiền vào thì ít ra tư tưởng của nhóm cũng đã được phổ biến đến đồng bào!

Quyết định là thế nhưng trong tất cả anh em, không ai có kinh nghiệm làm báo tuy kinh nghiệm viết bài đăng báo thì có! Vả lại, cũng vào thời đó, những người làm báo chuyên nghiệp cũng chỉ viết chữ không dấu rồi đánh dấu bằng tay. Ông Phạm Ngọc Lân là người làm việc trong ngành điện toán đã tạo ra bộ chữ tiếng Việt có dấu trên máy vi tính cá nhân Apple SE để làm báo Thông Luận.

Sau khi giải quyết được vấn đề tài chính và phương tiện kỹ thuật, tờ báo Thông Luận số 0 ra đời!

thongluan_so0
Cuối cùng, được sự ủng hộ của quần chúng, báo bán được!

Khi Thông Luận đã được biết đến, một số những người lâu nay im tiếng đã gia nhập nhóm như các ông Lê Văn Đằng, Huỳnh Hùng. Kế đó, ông Phạm Ngọc Lân giới thiệu ông Tôn Thất Long. Tiếp theo, bà Quản Mỹ Lan giới thiệu ông Nguyễn Văn Huy. Và sau đó ông Vũ Thiện Hân, Nguyễn Văn Khoa vv… cũng vào làm việc chung. Nhóm Thông Luận càng ngày càng vững mạnh với sự cộng tác đắc lực của những người biết trách nhiệm của mình trước vận nước.

Nhóm làm báo chủ trương chỉ gửi báo qua đường bưu điện, chứ không bán tại các sạp báo và tiệm sách. Với khuôn khổ của tờ A4, mọi người có thể photocopy dễ dàng để phổ biến. Người đầu tiên phổ biến Thông Luận dưới dạng photocopy là cựu ký giả Nguyễn Thái Lân ở miền Nam California. Ở Houston, các cảm tình viên của Thông Luận cũng phổ biến tờ báo dưới cùng một hình thức.

Đến đầu năm 1990, qua hội Nhân Quyền Việt Nam tại Hoà Lan, các thành viên Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu đã phát hành ấn bản Hòa Lan có thêm phụ trang để loan tin tức của Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản tại Hòa Lan.

Sau đó, tại một số những nước khác, nhiều người cũng cho in báo Thông Luận có thêm phụ trang. Thí dụ như vào năm 1995, hội An Vi của Linh Mục Kim Định do ông Vũ Khánh Thành tại Luân Đôn đại diện, đã xuất bản báo An Việt, trong đó vừa đăng nguyên văn báo Thông Luận vừa đăng thêm phần bài vở, tin tức của Cộng Đồng người Việt bên Anh.

Chủ nhiệm đầu tiên trong vòng 3 năm đầu của tờ nguyệt san Thông Luận là ông Bùi Quang Hiếu, 3 năm tiếp theo là ông Phạm Ngọc Lân, sau ông Lân là ông Vũ Thiện Hân. Sau đó, là các ông Diệp Tường Bảo, Nguyễn Văn Huy tuần tự phụ trách.

Dưới đây là danh sách chủ nhiệm của tờ Thông Luận, theo thứ tự thời gian:

1. Tháng 11/1987, nguyệt san Thông Luận xuất bản số 0 do ông Bùi Quang Hiếu làm chủ nhiệm cho đến số 33, tháng 12/1990;

2. Tháng 1/1991, ông Phạm Ngọc Lân làm chủ nhiệm bắt đầu từ số 34 và mãn nhiệm vào tháng 12/1993 với số 66;

3. Tháng 1/1994, ông Vũ Thiện Hân làm chủ nhiệm bắt đầu từ số 67 và mãn nhiệm vào tháng 12/2000 với số 143;

4. Tháng 1/2001, ông Diệp Tường Bảo làm chủ nhiệm bắt đầu tứ số 144 và mãn nhiệm vào tháng 8/2002 với số 161;

5. Tháng 9/2002, ông Nguyễn Văn Huy làm chủ nhiệm bắt đầu từ số 162 và chấm dứt nhiệm vụ vào tháng 12/2012 với số cuối cùng 275.
Thông Luận càng ngày càng có uy tín và trong nước bắt đầu xuất hiện “chui” những bản sao và đưa đến sự cộng tác của một số những người chia sẻ quan điểm của Thông Luận trước tình hình Việt Nam. Nhờ chủ trương bao dung và hòa bình đó, sau này những người trong nhóm làm báo đã được một số cán bộ cộng sản lão thành tin tưởng như các ông Nguyễn Hộ, Trần Độ và “nhóm Đà Lạt” – gồm có các ông Hà Sĩ Phu; Mai Thái Lĩnh; Tiêu Dao Bảo Cự; Bùi Minh Quốc – cũng như một số đảng viên phản tỉnh đóng góp bài vở cho báo Thông Luận.

Vì từ ngày đầu anh chị em trong nhóm không lấy một tên gọi chính thức cho nhóm như các tổ chức khác vẫn làm nên từ khi ra tờ báo Thông Luận, bên ngoài gọi “nhóm không tên” này là nhóm Thông Luận.
V. Những va chạm giữa Thông Luận và các tổ chức chính trị khác trong cộng đồng
Trong lúc các tổ chức khác chủ trương giải phóng Việt Nam bằng vũ lực thì Thông Luận lại chủ trương ôn hòa. Có nghĩa là cuộc đấu tranh sắp tới giữa người Việt yêu tự do, dân chủ chống lại Cộng Sản độc tài phải qua con đường bất bạo động.

Chủ trương nhà nước cần phải có chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc tưởng là rất hòa bình và bao dung này lại bị một tổ chức khác đánh phá dữ dội trên phương tiện truyền thông của họ. Chủ trương Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc bị họ bóp méo là Thông Luận chủ trương Hòa Hợp, Hòa Giải với Cộng Sản. Điều này tạo cho những người vốn chủ trương bạo lực có cơ hội làm dấy lên một phong trào chống phá Thông Luận trên các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình tại Hoa Kỳ.

Cao điểm nhất là vụ bạo hành của một tổ chức cực đoan đối với anh em nhóm Thông Luận.

Đó là cuộc hành hung gây thương tích cho hai ông Đặng Minh Kỷ (đại diện Thông Luận Hòa Lan) và Nguyễn Gia Kiểng (Thông Luận Paris) khi anh em nhóm Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu chính thức ra mắt ấn bản Thông Luận Hòa Lan vào ngày 16 tháng 4 năm 1990 tại thị xã Nijmegen – Hoà Lan. Việc này đã được tường trình đầy đủ trong hai số báo Thông Luận 27 và 28, phát hành vào tháng 5 và tháng 6 năm 1990. Trong đó, Thông Luận cũng đã nêu đích danh hung thủ.

VI. Những dự tính kết hợp với các tổ chức khác

1. Vào năm 1990, tại Trung Tâm Độc Lập ở Stuttgart, có cuộc họp bàn về việc hợp tác chung của bốn nhóm: Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu (Thuỵ Sĩ); nhóm chủ trương báo Độc Lập (Đức) của ông Vũ Ngọc Yên; Hiệp hội Dân chủ & Phát triển Việt Nam của ông Âu Dương Thệ (Đức) và nhóm Thông Luận (Pháp). Cả bốn nhóm đã đồng ý trên nguyên tắc là sẽ hợp tác chung.

Nhưng sau một thời gian, nhóm Độc Lập và Hiệp hội Dân chủ & Phát triển Việt Nam đã lặng lẽ tách ra, chỉ còn lại hai nhóm Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu và nhóm Thông Luận. Hai nhóm này tiếp tục làm việc chung và luôn luôn coi nhau như người cùng một nhóm. Có lẽ vì cả hai đều có cùng một cơ sở tư tưởng là dân chủ đa nguyên, hoà giải hoà hợp và bất bạo động nên sự hợp tác không có gì trở ngại.

2. Một thời gian sau khi xuất bản tờ báo Thông Luận – khoảng cuối năm 1991, đầu năm 1992 – thì ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam) của tổ chức Phục Hưng từ Mỹ sang gặp anh em nhóm Thông Luận Paris và đề nghị kết hợp. Hai ông Nguyễn Trọng Kha và ông Nguyễn Văn Thế, đại diện cho Lực Lượng Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu, cùng tham dự buổi gặp gỡ này.

Việc kết hợp này không thành vì một số thành viên của Phục Hưng cho rằng Thông Luận chủ trương hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản.

VII. Những nét chính về diễn tiến của Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên
1. Vào ngày 27/10/1990, một cuộc hội luận về Dân chủ Đa nguyên đã được Thông Luận tổ chức tại Paris với sự tham dự của năm tổ chức và thân hữu đến từ 8 quốc gia:

a. Lực Lượng Thanh Niên Viêt Nam Tự Do Âu Châu gồm các thành viên: bà Phạm Tú Minh và các ông: Đăng Minh Kỷ, Nguyễn Văn Thế, Nguyễn Gia Thưởng, Phạm Xuân Cảnh, Phan Phúc Vinh vv…;

b. Nhóm chủ trương báo Diễn Đàn Mới có bà Nguyễn Huỳnh Mai và các ông Đỗ Đình Thành và Nguyễn Văn Lang;

c. Cơ Sở Độc Lập có các ông Vũ Ngọc Yên và Dương Hồng Ân;

d. Nhóm Hiệp hội Dân Chủ & Phát triển Việt Nam gồm có các ông: Âu Dương Thệ, Lâm Đăng Châu và một số thành viên khác;

e. Nhóm Thông Luận Paris có bà Quản Mỹ Lan và các ông: Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Gia Kiểng, Phạm Ngọc Lân, Vũ Thiện Hân, Huỳnh Hùng, Lê Văn Đằng, Nguyễn Văn Khoa, Nguyễn Văn Lộc, Tôn Thất Long, Diệp Tường Bảo, Võ Xuân Minh, Nguyễn Văn Huy, Nghiêm Văn Thạch, Lê Mạnh Tường v.v…

Ngoài những người thuộc các tổ chức kể trên, còn có sự tham dự đông đảo của trí thức Việt Nam đến từ các nơi như:

– Paris có các ông: Nguyễn Văn Ái,  Lê Hữu Khoa, Hoàng Khoa Khôi, Lưu Văn Vịnh, Từ Trì, nữ nghệ sĩ Bích Thuận và bà Thụy Khuê;

– Hoa kỳ có các ông: Đỗ Quý Toàn (Vương Hữu Bột), Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam), Đinh Quang Anh Thái và Nguyễn Quốc Trung;

– Canada có ông Tôn Thất Thiện và Nguyễn Hữu Chung;

– Luân Đôn – Anh Quốc có ông Nguyễn Anh Tuấn.
Hoiluan_DCĐN00
2. Năm 1992 Cơ Sở Tư Tưởng được in thành Dự án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên.

Năm 1992 tên Phong Trào Dân Chủ Đa Nguyên ra đời với sự hợp tác chính thức của hai nhóm: Lực Lượng thanh Niên Việt Nam tự Do Âu châu và Thông Luận.

Khi đã hợp tác, Lực Lượng đã in Dự Án Chính Trị Đa Nguyên vào tháng 1/1992 để làm tài liệu học tập nội bộ.

DACT_LLTNVNTDAC

Đến tháng 2/1992, bản chính thức của Phong Trào Dân Chủ Đa Nguyên được phát hành.
DACT1992
3. Vào năm 1996, Dự Án Chính trị  Dân Chủ Đa Nguyên được bổ sung với những vấn đề mới dựa vào những biến chuyển của tình hình trong nước. Dự Án này lấy tựa đề là Thử Thách và Hy Vọng.
DACT1996
4. Năm 2000 Phong Trào Dân Chủ Đa Nguyên chính thức trở thành Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên cho đến ngày nay.

Vào năm 2001, Dự án Chính trị Dân Chủ Đa Nguyên được bổ sung và lấy tên là Thành Công Thế Kỷ 21.

DACT2001
Danh xưng Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên được chính thức đặt cho nhóm vào năm 2000. Trước đây, khi ra tờ báo Thông Luận, nhóm không có tên chính thức. Sau nhiều lần tìm cách kết hợp với những tổ chức khác nhưng cuối cùng thấy rằng khó có thể kết hợp được nên khi bước qua thế kỷ thứ 21, nhóm cần minh danh với tên của mình. Trong một cuộc thảo luận sôi nổi trong Phân Bộ Bắc Mỹ tại San José, nhóm Thông Luận Hoa Kỳ đã đề nghị đặt tên cho nhóm là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Tên gọi này, được toàn thể thành viên chấp thuận. Từ đó, danh xưng Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên trở thành tên chính thức của nhóm.

5. Năm 2015, Dự Án Chính Trị được bổ túc, viết lại và lấy tên là Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai.

bia_khaisang_kynguyen_thuhai_00
Dự Án Chính Trị, từ lúc ban đầu cho đến nay, là do công trình và trí tuệ của tập thể anh chị em trong Tập Hợp chứ không phải của riêng một cá nhân nào.

Về tờ báo Thông Luận, ban đầu nhóm chỉ hy vọng là báo sẽ sống được một năm. Trước khi ra tờ Thông Luận số 1, nhóm làm báo đã in thử tờ báo số 0 (xin xem hình đính kèm ở phần đầu). Địa chỉ tòa soạn của 100 số báo đầu tiên là tư gia của ông bà Phạm Ngọc Lân – Quản Mỹ Lan.

Như vậy kể từ số 1 ra đời vào tháng 12 năm 1998 cho đến số 275, số báo cuối cùng phát hành vào tháng 12/2012, báo Thông Luận giấy tổng cộng đã sống được 25 năm!

Chúng tôi ghi lại những sự kiện ghi trên theo thứ tự thời gian, đồng thời lưu trữ trong thư khố của tổ chức, không ngoài mục đích thực hiện trách nhiệm ghi chép và lưu giữ những công trình gầy dựng tổ chức của tất cả những thành viên đã và đang có mặt trong tổ chức. Tất cả chúng tôi đều mang hoài bão đưa nước Việt Nam vào kỷ nguyên mới của dân chủ đa nguyên.
Ngày 10 tháng 1 năm 2017,
Thay mặt Ban Quản Thủ Thư Khố
Nguyễn Văn Thế – Nguyễn Gia Thưởng – Phạm Tú Minh

PHIẾM MAI KHÔI : ĐIẾM CHẢY

Tiêu chuẩn

Cách đây hai hôm (12/01/2017) tui có stt trên FB như sau: “Những việc làm trước giờ của Mai Khôi chỉ màu mè kiếm fan như hàng trăm ca sĩ khác thôi mà. Trước giờ tui coi cổ như pha nên tui hổng ý kiến. Ai biểu ủng hộ cổ để rồi thất vọng ?
Nói vậy chớ, cắc cớ, ai hỏi tui cảm nghĩ gì về cổ thì tui xin thưa đúng hai từ: ĐIẾM CHẢY !”
Rất nhiều người chưa hiểu ý của tui cho nên đi lạc qua chuyện “lá cờ”. Trong số họ thì có con nhỏ cháu mà tui rất thương (trong bụng) viết rằng “… Nếu là con, con cũng làm như cổ.” (tức Mai Khôi)
Để trả lời thiệt ngắn thì không hết ý. Viết dài thì tui có nguy cơ bị tống cổ khỏi hãng. Cho nên câu trả lời dành cho hôm nay (thứ bảy 14/01) vậy.
Xin thưa, trong stt tui KHÔNG CHỦ ĐÍCH đánh giá MK về chuyện “lá cờ” mà tui BẤM HUYỆT cô ta từ trước đến nay. Xin phép để tui miên man tí hén.
Số là hồi năm ngoái tui có suy nghĩ như sau: Ai ai cũng thừa biết bầu cử QH ở xứ vẹm là một trò hề nhưng để bêu rõ thêm cái sự hề đó thì không có cách gì hay hơn là ủng hộ các ứng viên độc lập.
Rồi cái kết quả mà ai cũng thấy là đảng cộng phỉ (thêm một lần nữa) tự nhét phân vào mồm khi đồng loạt những ứng viên QH đều bị loại ngay ở mốc đầu tiên (ngoại trừ trường hợp của ông Trần Đăng Tuấn dù “qua ải” địa phương nhưng cũng bị loại… theo đúng qui trình). Nhân tiện xin nhắc lại một trường hợp cười thòi cả bác đó là trường hợp ông Đỗ Việt Khoa bị loại với lý do rất vẹm : “Để chó iả bên nhà hàng xóm”!
Lúc ấy, bên cạnh một số khuôn mặt các ông bà quen thuộc như Đặng Bích Phượng, Nguyễn Quang A, Trần Đăng Tuấn, Đỗ Việt Khoa hoặc Nguyễn Xuân Diện thì có một khuôn mặt (với tui là) mới tên Đỗ Nguyễn Mai Khôi (MK). Sau khi tìm hiểu xem MK là ai thì tui càng khoái khi biết cổ cũng (tạm gọi) là đồng hương của mình. Cổ là người Cam Ranh, gần xịt Nha Trang hà. Cái “sướng” của tui chợt vụt tắt khi tui nhận ra MK chỉ muốn đánh bóng mình qua các chiêu trò “thả rông vòng một”. Ca sĩ mà! Họ có quyền tạo scandale để média không được phép quên họ.
Có hai dạng ca sĩ cố gắng tạo Xì : một là quá nổi tiếng nhưng giọng hát đang “bên kia núi đâu có gì xanh hơn…”. Hai là quá trẻ, quá tệ mà muốn dùng “tiếng hót ót tiếng bom”. Tui nghe MK “hót” trên mạng thì thất vọng với cái thể loại nhạc chập cheng và giọng hát làm tui nhớ lại bốn năm về trước lúc còn ở khu nhà cũ, có con mèo cái của bà già hàng xóm lúc mùa động đực. Tui từng đề nghị bả triệt sản cho nó mà bả hét lên rồi gườm tui không khác gì lời khuyên dành cho chính bả vậy. Bẵng sau hai năm thì không còn nghe tiếng gào động đực vào hè đó tra tấn nữa. Có lẽ nó chết hoặc nó đi theo trai.
Giọng của MK không tệ như con mèo nhưng cũng không ngọt ngào hơn bà già hàng xóm cũ của tui. Tóm lại là không “gu” của tui. Do đó mà chuyện MK nổ lực kiếm fan thì rất dễ hiểu.
Rồi MK quăng cờ líp muốn gặp Obama (đang ngao du Việt Nam). Trò đó còn được “tăng cường” trên BBC nữa kià. Cuối cùng MK cũng được “đảng và nhà nước ta” cho phép gặp Obama để nói chuyện… kín mà sau đó đại sứ Huê Kỳ phán “VN tôn trọng nhân quyền và tự do tôn giáo”. Tui có quyền nghi ngờ cổ chớ sao. Cái bức hình được ngồi chung với Obama, tui dám cam đoan rằng, sẽ là món gia bảo của cổ truyền cho con cháu không khác gì bức Nguyễn Tất Thành tại đại hội Tours (Pháp) hồi 1920 mà con cháu vẹm cứ sướng rên người.
Thế là thiên hạ cứ tưởng lầm cổ đấu tranh dữ lắm. Tui bắt mạch MK là cổ chẳng có đấu (ngu sao) mà tranh thì hẳn hòi rồi. Tranh gì ? Và tranh với ai ? Xin thưa : tranh tiếng, tranh công và cả tranh thủ fan ! Do đó mà tui coi cổ như pha. Sự việc MK được visa để lông bông một thời gian bên Mỹ từ Washington cho đến Virgina càng làm tui thêm nghi ngờ rằng cổ “có thoả thuận” để giúp cộng phỉ thực hiện NQ36, hoặc nếu không làm điều đó được thì chí ít cũng làm phân hoá cộng đồng người Việt (như bác Triết của cổ muốn “làm phân hoá chính quyền Mỹ” vậy).
MK chỉ muốn tạo dựng bản thân bằng những hình ảnh “được trọng vọng” khắp nơi, được gặp gỡ với những người nổi tiếng (nhưng nông nổi như bà Nguyễn Thị Thanh Bình ở Virgina). Và kết quả được toại nguyện là cả hai (bà) đều nổi lềnh bềnh như rác rưỡi mùa lũ cuốn vậy.
Cổ đi chàng hảng, một bên dựa vào “mức cho phép” của cộng phỉ, một bên dựa vào “sự vồ vập ngây thơ” của một số người Việt ở hải ngoại để khoác hào quang cho bản thân. Sự kiện liên quan đến “lá cờ” chỉ là “cái giới hạn” mà đảng đã cho phép MK mà thôi ! Bởi vậy sẽ không lạ để cổ (phải) thanh minh thanh nga với cộng phỉ rằng “em chả mà chúng…”.
Từ hồi còn con nít tui đã nghe quanh tui chửi câu điếm rạc, điếm đàng, điếm thúi, điếm chảy. Tui không hoàn toàn hiểu nghiã của những tiếng chửi đó nhưng với cái đầu hay tưởng tượng (để vẽ tranh) thì tui cảm thấy chữ điếm chảy là ghê gớm nhứt. “Chảy” làm tui liên tưởng đến chất lỏng, nó luồn lách và thẩm thấu khắp nơi. Hoặc ghê hơn là như cái bịnh iả chảy khiến thân thể bạc nhược ra.
Do đó mà tui (nhái): “Nhìn tổng thể, MK có bao giờ được nổi tiếng như thế này chưa ?”. Xin thưa rằng có nổi tiếng, mà tui nôm na, là ĐIẾM CHẢY.

Viết thêm: Tui rất ghét những người đụng tí là gán ghép cái câu “Xướng ca vô loài” mỗi khi không thích ca/nhạc sĩ nào đó. Nó xúc phạm ghê gớm không khác gì đụng ai khác ý kiến là sẳn sàng đơm ngay cái mũ cối. Tui đã từng lên tiếng nhiều lần về chuyện xúc phạm này rồi, nay nhắc lại để những người nào là “bạn” của tui thì tránh không nên cmt ở “nhà tui” nhen. Nó làm tui mắc cười khi tưởng tượng con bò cứ bắt cái quai hàm lao động, hoặc như lũ DLV nhai mãi “Bạn đã làm gì cho TQ…” mà bản thân nó cũng chẳng biết xuất xứ câu nói đó đến từ đâu.
Về chuyện “lá cờ” thì tui sẽ viết trong stt khác bởi đó là chuyện rất nghiêm túc.

Strasbourg, 14/01/2017
– Vũ Tuân – KVC